Có thể nói, Minithơ mang đến cho ta nhiều lạ lẫm nghĩ suy với thảng thốt của tâm hồn. “Nhà văn đích thực không có gì để nói cả. Điều đáng kể là cách nói” . (Robbe-Grillet). Với Minithơ, TNH đang có cách nóicủa mình.
Khi chọn Nam Bộ làm nền cho thơ và trường ca của mình, yếu tố trước tiên chính là chất thô ráp như ngọc chưa mài giũa của ngôn ngữ Nam Bộ đã cuốn hút nhà thơ, kế đến là chất “biên khu” của những hình ảnh mang tính đặc trưng Nam Bộ. Tác giả thú nhận trong tiểu luận của mình: “chính giọng văn đặc sệt Nam Bộ với nhiều phương ngữ trong cách diễn đạt đã cuốn hút ông”
Nhà báo kỳ cựu Đinh Kỳ Thanh cho rằng: “Chúng tôi chỉ muốn khẳng định ông Hảo là người có tấm lòng tốt, có nhiều ý kiến hay, xác đáng, ông lại muốn mọi người viết hay hơn, tài hoa hơn… song cách phê bình và đánh giá thường “đao to búa lớn”, nhiều lúc lại báng bổ, “thày đời” khó làm cho người được góp ý chấp nhận ngay lập tức. Ông Hảo cũng là một nhà thơ nhà văn từ trong lò “văn học quốc doanh” mà ra chứ đâu phải là “văn sĩ hải ngoại” hay thi sĩ từ trên trời rơi xuống mà không biết rõ những “con rận trong tấm mền văn học chính thống” bấy lâu nay hoặc tính cách và bản chất của các quan chức Hội Nhà văn VN. Thế nhưng, nếu ông phát biểu mềm mại hơn, ít trích dẫn các kiến thức sách vở khiến người đọc khó chịu, chắc chắn ông sẽ được đa số khán thính giả ủng hộ và yêu mến. Và như thế cũng chắc rằng ông Sĩ Đại chẳng thể nào chụp mũ cho ông, vu vạ ông là một tên Nhân Văn – Giai Phẩm đội mồ sống lại lúc này"
Cái tên Vương Trọng đã trở thành một thương hiệu trong giới những người quan tâm và nghiên cứu về Truyện Kiều trong suốt mấy chục năm qua. Tuy nhiên, “sự kiện” (có thể gọi một cách vui vui như vậy) ông cho trình làng bản dịch lại Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn ở tuổi 69 đã khiến tôi suy nghĩ nhiều hơn về một khía cạnh khác, đó là minh chứng rõ rệt cho thấy, ông cũng như rất nhiều những người cầm bút đầy ý thức khác hôm nay, vẫn đang đọc trước tác của cổ nhân với một tinh thần học hỏi, cầu thị, và chắc chắn, cả với niềm ham thích được thưởng thức những áng văn chương xưa như thứ rượu lâu năm đằm sâu hương vị.
Thơ miền Trung có thể dữ dội, nồng nàn như thơ Thu Bồn, có thể tỉnh táo mà day dứt như thơ ý Nhi, lung linh u buồn như thơ Đinh Thị Như Thúy, hồn nhiên đằm thắm như thơ Mỹ Dạ…Và cũng có thể điềm tĩnh để bùng nổ trong lặng lẽ như thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Trong tiểu đội thơ chống Mỹ với tiểu đội trưởng Phạm Tiến Duật, có Nguyễn Khoa Điềm như một chính trị viên, ông vẫn giữ vị trị ấy ngay cả khi chỉ huy tiểu đội được thay thế bằng Hữu Thỉnh về cuối cuộc chiến tranh. Nếu chúng ta hình dung tiểu đội thơ chống Mỹ như một dàn đồng ca thì chính họ là người lĩnh xướng, vào các khúc thức khác nhau và cần kể thêm người lĩnh xướng thứ tư là Trần Đăng Khoa. Nhân thể, xin kể tên những đội viên còn lại; họ là Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Vũ Quần Phương, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ…
Từ trước đến nay, nói đến kịch là chúng ta nói đến xung đột kịch. “Xungđột, do đó, là một đặc điểm cơ bản của kịch”. Và nói đến Romeo và Juliet, người ta thường nghĩ, xung đột giữa tình yêu của Romeo, Juliet và mối thù giữa hai dòng họ là xung đột cơ bản, xuyên suốt tạo cơ sở để Shakespeare xây dựng vở kịch. Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy vấn đề cần phải bàn thêm.
Những hình ảnh quen thuộc của trời đất, vũ trụ như mưa nắng, gió lũ, trăng tròn trăng khuyết khi vào thơ ca Hoàng Trần Cương lại như mang linh hồn của xứ sở, của con người, có tính cách của hồn thiêng tổ tiên và của cả những quái vật cuồng nộ. Chúng hòa quyện với nhau tạo nên một thế giới thơ đầy ám ảnh, đầy biến chuyển và đầy sự cuốn hút.
Hơn 40 năm nay, nhiều thế hệ học trò đã lớn lên mà tâm hồn được bồi đắp bằng những câu thơ đẹp lành hồn hậu, dí dỏm và tinh anh một cách lạ lùng, hấp dẫn như có ma lực của anh.
Lược đồ thi ca Việt thế kỉ XX sau nhiều thập niên đầu được thắp sáng bởi chòm sao chổi thơ ca Hàn Mặc Tử, đến những thập niên cuối lại được bừng lên với hào quang mới: hiện tượng thi ca Bùi Giáng. Thi sĩ Bùi Giáng được biết đến như một “ngôi tinh văn kì dị có bóng dáng lồng lộng nhất hậu bán thế kỉ XX” (Hoàng Phủ Ngọc Tường) với sự nghiệp trước tác đồ sộ trên nhiều lĩnh vực thơ văn, phê bình triết học, dịch thuật, phê bình văn học, hội họa…Và, ngay ở lĩnh vực nghiên cứu văn học, có thể tìm thấy ở ông những quan niệm đáng ghi nhận về lí luận sáng tạo và tiếp nhận thơ ca.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.