Nhà thơ Bích Khê (1916 - 1946), một trong những người đi đầu trong việc cách tân thơ. Nhưng những bài thơ hay nhất của ông như “Tranh lõa thể” hay “Ngũ hành sơn”… theo tôi cuối cùng cũng bị chính cảm xúc và nội dung của bài thơ dắt dẫn ông. “Nhô lên núm vú đồi/sữa trăng nhi nhỉ giọt”, tả ánh trăng mà thấy đến thế, thật có một không hai!
Nhà thơ Phạm Khải nhận định: “Sau “Thuyền và biển”, như chưa thỏa với những gì mình muốn gửi gắm, Xuân Quỳnh viết tiếp bài “Sóng”. Cùng thể thơ ngũ ngôn, bài này khá giống “Thuyền và biển” ở cả giọng điệu lẫn cấu tứ. Bài thơ hẳn sẽ có vị trí riêng trong sự nghiệp thơ của Xuân Quỳnh nếu nó không làm người đọc nhớ tới “Thuyền và biển” (có cảm tưởng như “Sóng” là một nhánh phụ của “Thuyền và biển”). Đã có lúc tôi chợt nghĩ: Giá như tác giả dồn hai bài làm một, biết đâu chị sẽ có một thi phẩm qui mô và đặc sắc hơn?”
Nhà văn Nguyễn Khắc Phục ngồi lẫn giữa đám bằng hữu bạn bè văn chương sân khấu. Kế bên ông là một phụ nữ trẻ, một người đàn bà mặn mà vóc dáng, cái mặn mà thường thấy của những người vừa qua kỳ sinh nở.
Tên: Nguyễn Kim Dũng. Bút hiệu: Thế Uyên. Ngày sinh phỏng định: 16-3-1935 tại Cửa Ô Yên Phụ, Hồ Tây, Hà Nội. Ngày sinh đúng: 14 tháng 8 năm Ất Hợi. Viết văn từ năm 1960.
Từ giác độ hình thái học thuần tuý, trữ tình có đặc điểm riêng ở ngữ điệu lời nói. Một bài thơ trữ tình có thể vừa mô tả, vừa trần thuật, vừa đối thoại, nhưng khác với tự sự và kịch, bao giờ nó cũng có một “ngữ điệu” trữ tình riêng biệt. Ngữ điệu trữ tình ấy là một cái gì đấy hoàn toàn xác định và cực kì quan trọng ở bình diện ngữ nghĩa...
KHÚC THỤY DU của nhà thơ Du Tử Lê được thế hệ người đọc miền Nam (thời chiến tranh) biết đến nhiều. Thế hệ người đọc sau 1975 thường được nghe ca khúc 'Khúc thụy Du' do NS Anh Bằng phổ nhạc, nhưng ít người được đọc trọn bài thơ này. BK.org xin giới thiệu bài thơ này cùng bạn đọc trích từ binhfchonthohay.com (Mai Bá Ấn).
Huế, buổi sáng tháng 3/2012. Diễn đàn văn học Việt - Mỹ sắp kết thúc. Một người đàn ông trạc độ tuổi trên 60, mái tóc dài bạc trắng đứng thất thần, đơn độc ở một góc sảnh khách sạn. Những dòng nước mắt lặng lẽ tuôn trên khuôn mặt hồng hào và phúc hậu của ông. Tôi đến cạnh, đặt tay lên vai ông: “Ông sao thế, Larry?”. Larry quay sang tôi, sự đau đớn trên khuôn mặt ông làm tôi thảng thốt: “Tôi sắp trở lại nghĩa trang Trường Sơn. Tôi sẽ đi thăm mười nghìn ngôi mộ. Mười nghìn ngôi mộ, cô có biết không?”
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.