Thoạt đọc, bài thơ không có gì đặc biệt, cũng như những bài thơ tình than vãn về tình yêu lứa đôi bị chia rẽ, bội bạc... đầy rẫy trên mạng, đọc xong là quên liền. Tôi định nhấn like rồi chuyển đọc tin khác thì âm hưởng câu thơ: "Lấy chồng! Em lấy chồng! Ơ! Lấy chồng..." níu tôi đọc lại.
Lê Văn Vỵ đã in 7 tập thơ và đã được nhiều giải thưởng, vậy mà đến giờ tôi mới được đọc thơ anh, tập thứ 8: “Đi qua nỗi buồn”. Tập thơ mang đến cho tôi nhiều bất ngờ về một nhà thơ lao tâm khổ tứ, luôn trăn trở chuyện đời với những phận người mong manh lắm buồn vui cười khóc… bằng ngòi bút của một nhà báo thi sĩ.
Lê Đạt viết trường ca Bác năm 1970, nhân dịp giỗ đầu Bác. Tập trường ca được Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành năm 1990 - nhân dịp thế giới kỉ niệm 100 năm sinh Danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh. Vậy là phải sau hai thập kỉ bản trường ca mới đến được với bạn đọc rộng rãi.... Lí do vì sao có sự kín tiếng và im lặng lâu như thế, không nói chắc mọi người đều rõ. Điều quan trọng là từ giữa những năm 1980 - ba mươi năm sau khi xảy ra sự kiện Nhân văn - Giai phẩm - cái tên Lê Đạt (chứ không phải là Đào Công Đạt) mới có thể xuất hiện trở lại và thời điểm năm 1990 quả là thuận nhất, thích hợp nhất cho việc công bố trường ca về Bác.
Đồng dao lũ giang hồ đàng đúm đông hơn họp, đồng dao đêm cộng cảm nhảy múa với ma, đồng dao tượng mồ khoe Âm khoe Dương, cánh cửa phòng mở ra khép lại, cuộc tình bên miệng núi lửa, hoặc tiếng mèo rên lạnh buốt linh hồn. Đồng dao lang thang. Đồng dao rượu. Đồng dao em. Và đồng dao chợt nhiên cánh hoa đào rơi lặng im trong giấc ngủ… Người Ham Chơi ta bà qua bao nhiêu nẻo đường không tên của trần gian, đi xuyên đá để tới bên vực thẳm của phế tích, và đến cùng kiệt gã theo tờ lịch mỏng manh nhảy vào kiếp luân hồi.
Biết anh qua một vài bài thơ anh đăng trên Facebook, những bài thơ được anh rút ra từ hai tập thơ Phẳng & Nghiêng; Chạm & Vuốt. Quen nhau trên facebook nhiều người nghĩ là ảo, nhưng với tôi thì rất thật, bởi anh đã yêu quý gửi tặng cho tôi cả hai tập thơ. Hai tập thơ gửi đến Huế vào tháng 5 năm 2017, nắng bỏng cháy, còn tôi thì đang thực hiện những chuyến dạy xa nhà, dạy ở trường Trung cấp Luật Đồng Hới, mỗi tuần về Huế lại lo chạy sấp chạy ngửa dạy bù cho những lớp ở Huế. Cảm thấy mình là bạn đọc vô tâm nhất khi nhận quà quý mà chưa gửi lời tri âm.
Chúng ta đi tìm trong thơ tiếng nói của chính mình. Chúng ta nói trong những ước thúc chặt chẽ của ngôn ngữ và âm nhạc. Chúng ta nói chúng một cách tự do.
Trong dịp Ban Tuyên huấn khu 5 được phong tặng danh hiệu Anh hùng trong năm 2018 vừa qua, nhà thơ Thanh Thảo nói với tôi rằng nhà thơ Hữu Thỉnh cho anh biết Hội Nhà văn đã chính thức làm hồ sơ đề nghị Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng cho nhà văn Dương Thị Xuân Quý.
19 giờ 50 tối 07.01, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã vĩnh biệt cõi trần, vĩnh biệt bạn bè văn chương. Cách đây 2 tuần, tôi vào thăm nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo ở phòng 1130 khoa Ung bướu, BV Bạch Mai. Anh nhập viện đã gần một tháng, không truyền hóa chất nữa mà đang xạ trị. Vừa gặp nhau, anh nói: “Em đấy à! Nhà thơ chúng mình còn được mấy người…”, mấy câu sau anh nói nhịu, tôi nghe không hiểu.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.