Những năm từ 1975 về trước khi đang công tác tại tạp chí Văn Nghệ quân đội , tôi thường có dịp trò chuyện với Nguyễn Minh Châu . Ấn tượng để lại trong tôi sau các buổi nói chuyện này sâu đậm tới mức tôi phải thường xuyên ghi chép trong một cuốn sổ riêng . Dưới đây là những suy nghĩ của tác giả Dấu chân người lính về nhiều vấn đề nghề nghiệp mà tôi đã nghe và ghi được . Mỗi lần đọc lại, tôi vẫn hằng tin rằng ghi chép này không chỉ có ích cho những ai muốn hiểu về ông mà còn là những gợi ý để cùng hiểu về một lớp người viết văn và một giai đoạn văn học
Vấn đề là anh dùng ngôn ngữ gì và cách nhìn nào, quan trọng nữa, đích của sáng tạo ở đâu, chất văn hóa, cá thể và loài, tự do và xã hội, và v.v…ra sao – mới biết anh là ai, đại diện cho ai, và vì ai mà viết.
giữa vô vàn những lựa chọn học thuật có tính “an toàn”, “bằng phẳng” hơn cho sự nghiệp, GS.TS Lê Huy Bắc đã chọn lấy “cột đèn” hậu hiện đại đầy gian truân, nghi ngờ và cả những phản đối của không ít người. Nhưng cũng vì cách lựa chọn dũng cảm ấy giữa những ngã tư, nên tính độc sáng của ông trong nghiên cứu lại được thừa nhận rộng rãi.
Một con người đã từng đau lòng đứt ruột vì cha bị giặc Tàu bắt đem đi, từng nằm gai nếm mật trong rừng sâu suốt mười năm trời kiên trì nhẫn nhục, từng tung hoành ngang dọc khắp chiến trường máu lửa để chống giặc ngoại xâm, từng bàn luận việc quốc gia đại sự với hoàng đế Lê Lợi, từng viết Bình Ngô đại cáo, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt, từng vào sinh ra tử như Nguyễn Trãi, khi treo ấn từ quan không phải vì chán đời mà để cho chí khí, tâm huyết của mình hoà quyện vào tạo vật thiên nhiên.
Nguyễn Thượng Hiền là nhà nho trung nghĩa, đồng thời cũng là nhà nho ẩn dật, một nhà thơ yêu nước. Ông đem cả cuộc đời cống hiến cho Tổ quốc, dùng thơ văn để cổ động cứu nước và duy tân…
Phùng Tấn Đông - Bạch Diệp - Nguyễn Man Kim - Đoàn Mạnh Phương - Ngô Công Tấn - Vĩnh Nguyên - Phan Trung Thành - Lê Hưng Tiến - Nhất Lâm - Châu Thu Hà - Nguyên Tiêu
Tô Hoài thường gọi tôi là Tú Nam, như nhiều người quen hoặc thân tôi từ thời kháng chiến chống Pháp, vì khi đó tôi dùng bút danh ấy. Mãi sau này tôi mới ký là Vũ Tú Nam. Tôi và anh Tô Hoài công tác với nhau trong nhiều năm, khi ở Hội đồng Văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn, khi trong Đảng ủy cơ quan các Hội Văn học - Nghệ thuật, anh là bí thư, tôi là phó bí thư. Tô Hoài thường đi công tác nước ngoài đột xuất, tôi phải thay anh giải quyết các công việc Đảng. Tôi thường nhớ những lời dặn dò chi tiết của anh, rất thân tình và đầy tinh thần trách nhiệm.
Một chặng đường thơ gần 40 năm, dài và bền bỉ như chặng đường Mã Giang Lân làm nghiên cứu. Những tập thơ xuất bản (Bình minh và tiếng súng - 1975, Hoa và dòng sông - 1979, Một tình yêu như thế - 1990, Những mảnh vỡ tiềm thức - 2009, Về một cây cầu - 2010, Những lớp sóng ngôn từ - 2013) không liên tục nhưng những xúc cảm thơ chưa bao giờ ngừng nghỉ.
Nhiều người nghĩ rằng, được yêu những nhà văn nổi tiếng hẳn sẽ là một điều may mắn, họ có thể nhận được những lá thư tình mùi mẫn hay thậm chí sẽ đi vào huyền thoại trong những áng văn thơ lãng mạn.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.