Và chúng tôi đã làm quen được người nữ ca sĩcủa Đà Lạt từ năm ấy,để năm sau khi bày tranh, Khánh Ly đã là bóng dáng đẹp nhất trong lòng bạn bè …“Nguyễn đã gặp các bạn Đinh Cường và Trịnh Công Sơn rồi Khánh Ly và bao nhiêu người nữa. Giáng Sinh, kéo nhau đi uống bia, rồi về đàn hát ở studio Đinh Cường trên đường Rose. Có đêm uống rượu ở kiosque Dì Ba,hay vào Night Club dưới chân Đài Phát Thanh nghe Khánh Ly hát …
Nguyễn Bính được mệnh danh là thi sĩ của tình quê, thi sĩ “chân quê”. Mồ côi mẹ rất sớm, mười ba, mười bốn tuổi, Nguyễn Bính phải theo chân anh cả (nhà viết kịch Trúc Đường) ra Hà Nội, Hải Phòng kiếm sống, rồi sau đó vào Huế, vào tận Sài Gòn…sống “kiếp con chim lìa đàn”. Trót “Bỏ lại vườn cam, bỏ mái gianh/ Tôi đi dan díu với kinh thành” (Hoa với rượu) nhưng Nguyễn Bính lại thấy “Bơ vơ trong xứ người xa lạ” (Lá thư về Bắc), xa lạ với văn minh đô thị đến cùng cuộc biến thiên “mưa Âu gió Mỹ”, bày tỏ thái độ bất hoà với thực tại, tìm về với vẻ đẹp “thời trước” của đồng đất mình, quê hương mình. Đó là hai trạng thái tinh thần – cảm xúc chủ đạo trong thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng.
Vào một buổi sáng tôi có gặp một người thiếu nữ, nói dăm ba câu chuyện về thơ phú văn chương rồi người thiếu nữ ấy bỏ đi. Trái tim bỗng cồn cào, da diết - Tôi đi vào một cái quán thành phố trông sang bóng mặt hồ xanh và viết bài thơ này. "Lời hót con chim khách" là một bài thơ tình thi vị mà hoang sơ...
Nhà thơ đã từng đạp xe qua chiếc cầu cũ kỹ, một sự nhẩn nha bình ổn nhưng cũng chứa đựng bao hàm ơn để lắng lại lòng mình trong "Sớm thu dịu ngọt". Đặt những linh kiện sắt thép nặng nề của chiếc cầu Long Biên trong không khí mờ ảo khói sương của sớm thu dịu ngọt để đến với Cây nấm Linh Chi chùa Bồ Đề qua Sông Hồng vặn mình trong cát là những cảm nhận rất tinh tế rất đời. Ông đang bắc cho mình một cây cầu của hoài niệm để bước vào Cõi lặng khi từ giã chốn quan trường trở về với cuộc sống thường ngày của một thi sỹ.
Đồng Đức Bốn, Phạm Xuân Nguyên, Mai Bá Ấn rất thành công với thể loại thơ lục bát, được dư luận chú ý. Lục bát Đồng Đức Bốn, Phạm Xuân Nguyên đậm chất thế sự được viết theo lối dân gian – hiện đại. Mai Bá Ấn cắt dòng bậc thang… Có người nói: làm thơ chỉ cần cảm xúc, không cần lí luận. Không đúng, người sáng tác hôm nay cần có lí luận để “chỉ đạo” công việc sáng tạo của mình, không thể sáng tác mù. Nhưng cũng không để lí luận o ép, uy hiếp hồn thơ. Trường hợp Du Tử lê, Đồng Đức Bốn, Phạm Xuân Nguyên, Mai Bá Ấn hay Nguyễn Bá Hòa là những gợi ý để mỗi người làm lục bát tự định hướng. Lục bát Nguyễn Bá Hòa là lục bát “rin”, gần với lục bát truyền thống, chưa phải là “lục bát đời mới”, không thấy dấu ấn của sự cách tân.
GS Phong Lê là người Phản biện 1 Luận án Tiến sĩ của tôi. Và chính bản thảo viết tay bài phản biện này, GS đã đưa lên làm bìa cho cuốn sách "Phong Lê của chúng tôi". Có lẽ chính vì lẽ đó mà tôi - một học trò nhỏ của thầy - được thầy trang trọng ghi tặng tập sách này. Và hiển nhiên, được thầy chọn phản biện làm bìa sách, lại được thầy tặng sách, tôi, dù khiêm tốn cũng không thể không nói là rất vui và tự hào. Xin trân trọng giới thiệu quyển sách này cùng bạn đọc qua bài viết của tác giả Nguyễn Văn Hoa (TS Mai Bá Ấn)
Những biến cố lịch sử tại miền Nam trong gần hai thập niên (1955 -1975) đã có tác động đến giới văn nghệ sĩ. Ý thức dấn thân nhập cuộc của những cây bút đô thị trong từng giai đoạn, đã đưa họ vượt ra ngoài cái thế giới riêng tư của mình để vươn tới sự cảm thông sâu sắc, đồng thời chia sẻ với thân phận bọt bèo của người cùng khổ, người bị áp bức. Những tác giả đô thị tại Sài Gòn và tại các thành thị miền Nam đã bày tỏ tình liên đới với người dân cùng khổ ở nông thôn và người dân nghèo thành thị tại miền Nam. Từng nơi, từng lúc, những tác giả đô thị đã đóng góp nhiều tác phẩm dấn thân, phản kháng, dân tộc, tiến bộ và yêu nước vào dòng chảy văn học Sài Gòn trước năm 1975 và tiếp tục đồng hành với văn học đất nước từ sau năm 1975.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.