Nhiều năm nay những người trong giới, khi nhắc đến thơ Trúc Thông thì hầu như theo thói quen hoặc theo một sự đánh giá nào đó, chỉ nhắc tới bài thơ lục bát "Bờ sông vẫn gió". "Bờ sông vẫn gió" là một bài thơ lục bát hay, nhuần nhị và cảm động về người mẹ. Một nhà cách tân thơ như nhà thơ Trúc Thông, trong sáng tạo thi ca của anh, dĩ nhiên những bài thơ tiêu biểu không chỉ là "Bờ sông vẫn gió", mà phải kể đến một loạt những bài thơ tự do Trúc Thông sáng tác vào những năm 70-80 của thế kỷ trước. Đó là những bài thơ khoáng đạt và thuần khiết, với kết cấu thơ vừa chặt chẽ vừa mở, thể hiện sự lao động nghệ thuật công phu. Theo tôi, dấu ấn của thơ Trúc Thông được tạo lập đậm nét có lẽ bắt đầu ở thời kỳ này. Đó là thời kỳ mà thế giới thơ Trúc Thông mở về phía Hy vọng, về sự hồn nhiên trinh tuyền trong cảm nhận của nhà thơ về thế giới và thiên nhiên và về cuộc đời...
Phạm Quỳnh đã nhận ra tình trạng bất ổn ấy, và ông xem đó là những dấu hiệu khủng hoảng của văn hóa dân tộc trên con đường hòa nhập với phương Tây. Ông nhận thức một cách rõ ràng: nền văn hóa dân tộc đang cần một cuộc cải cách lớn. Trong hàng loạt những công việc phải tiến hành, có một việc hết sức cấp thiết: hiện đại hóa tiếng Việt. Điều này xuất phát từ mối liên hệ mật thiết giữa văn hóa và ngôn ngữ. Phạm Quỳnh tâm niệm: "muốn có một nền văn hóa dân tộc thì phải tồn tại một ngôn ngữ dân tộc hoàn thiện xứng đáng là ngôn ngữ văn hóa"
Trần Thị Ngọc Lan sinh năm 1979 tại thị trấn Sao Vàng, Thọ Xuân, Thanh Hoá. Lên 5 tuổi, do một trận sốt bại liệt biến chứng sang não, chị bịbại liệt biến dạng nửa người bên phải, tổn thương thần kinh ngoại biên, làm méo giọng nói, chân phải và tay phải bị liệt, và nửa bên trái cũng yếu. Ngày mới bị lâm bệnh, chị phải bò. Sau hai năm luyện tập chị đi lại được, nhưng rất khó khăn. Trong hoàn cảnh ấy, Ngọc Lan đã tìm đến với văn chương.16 tuổi, chị ra mắt tiểu thuyết đầu tay nhan đề Ánh sao rơi. Năm 1999, chị viết thư gửi trực tiếp cho ông Nguyễn Minh Hiển, lúc đó là Bộ trưởng Bộ GDĐT. Khi ấy, Bộ GDĐT quy định không cho những người tàn tật không đủ sức khoẻ dự thi vào đại học. Trong thư chị đã viết: "Tôi là người có năng khiếu văn chương, đã có tác phẩm được xuất bản, và trên hết tôi muốn là người có tri thức, sống có ích cho xã hội. Đề nghị ông cho tôi được dự thi đại học, để tôi có thể thành công dân tốt, có ích cho xã hội, và để bản thân tôi, gia đình tôi đỡ thiệt thòi". Bộ trưởng đã đồng ý, đánh công văn về cho Trường Viết văn Nguyễn Du - nay là khoa Sáng tác và Lý luận phê bình văn học, Đại học Văn hoá Hà Nội, đề nghị trường cho chị dự thi như những thí sinh khác. Và chị đã đỗ vào trường. Cho đến nay Trần Thị Ngọc Lan đã cho ra mắt 4 tiểu thuyết, 4 tập thơ và 3 tập truyện ngắn
Tộc Thái là một trong 54 tộc người, trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, có tiếng nói và chữ viết rất gần với người Việt. Đặc biệt trong ngôn ngữ Thái hiện nay còn giữ được rất nhiều yếu tố của ngôn ngữ Việt cổ. Ngoài do sự giao thoa giữa các nền văn hóa trong quá trình phát triển của những nhóm cư dân Việt Cổ phát triển lên thành người Kinh, thì chủ yếu là do tộc Thái với những yếu tố khách quan, giữ được nhiều tinh hoa của ngôn ngữ Việt cổ, phát triển hoàn thiện như bây giờ.
Với một tay nghề già dặn, thơ Hoàng Trần Cương là thứ phù sa kết đọng mang nét tổng kết cuộc đời sau những năm tháng vật lộn gian nan. Như một tấm gương lồi, nhà thơ đã phản ánh được những vấn đề chân thật và bản chất nhất có tính đặc thù của thời đại ta đang sống. Soi vào dòng thơ Hoàng Trần Cương ta thấy bóng dáng mình thấp thoáng nổi chìm. Nhà thơ đã cảnh báo: sống đâu phải dễ, phải kiên cường lắm mới mong sống sót ở đời. “Trầm tích” và “Quà tặng của của thế kỷ” của Hoàng Trần Cương là những thi phẩm có giá trị được kết tinh bằng máu huyết của một thi nhân tạo nên khí cốt tầm vóc thi bá. Văn học Việt Nam hiện đại ghi thêm một tên tuổi mới sáng giá về trường ca: Hoàng Trần Cương! Trầm tích là bản trường ca về cuộc sống, bài ca về số phận con người mang ý nghĩa nhân văn bởi nó đã khêu gợi và truyền lửa cho ta hành động. Thơ Hoàng Trần Cương là quyển cách trí, là sách học làm người bằng thơ hướng cho con người một thế đi, dáng đứng. Sau chiến tranh thơ ta đang có xu hướng khai thác đời tư và những mảnh đời vụn vặt, nhàn tản thì Hoàng Trần Cương đã dám xông thẳng vào những vấn đề thế sự gai góc nóng bỏng của xã hội hôm qua và hôm nay để hướng tới ngày mai tươi sáng với cái nhìn sắc bén, tổng lực cất lên tiếng nói mạnh bạo có trọng lượng, đầy ma lực nghệ thuật. Trầm tích là thiên trường ca có lẽ là hay nhất trong các trường ca hay của nửa cuối thế kỷ XX đầy giông bão.
Ngải Thanh tên thật là Tưởng Hải Trừng (sinh ngày 27-3-1910, mất ngày 5-5-1996) sinh ra trong một gia đình địa chủ họ Tưởng, tại làng Kim Hoa, huyện Tưởng, tỉnh Chiết Giang. Ông là một trong những nhà thơ mới Trung Quốc có ảnh hưởng lớn đến các nhà thơ mới ở thời kỳ sau.
Với các nhà văn thì có qúa nhiều điều cần nói, cần đề xuất, muốn đòi hỏi nên ai lên diễn đàn cũng muốn nói được những điều day dứt, bận tâm! Còn người ngồi nghe dưới hội trường thì luôn trong trạng thái sốt ruột nên chỉ nghe vài phút họ đã rào rào vỗ tay xua đuổi người đang nói trên diễn đàn! Có những tham luận lí sự dông dài, vô bổ nhưng cũng nhiều tham luận nêu những vấn đề thiết thực, cần thiết với tổ chức hội Nhà Văn nhưng không tham luận nào được đọc trót lọt, trọn vẹn! Đây là một ứng xử rất không đẹp, không văn hóa của những người làm văn hóa! Ứng xử này diễn ra trong suốt đại hội và đòan chủ tịch đông đảo ngồi kín hai dãy bàn dài hòan tòan không có một động thái can thiệp, mang lại một ứng xử văn hóa cho đại hội nhà văn!
Với tiểu thuyết hiện thực phê phán của thế kỷ XIX, đặc biệt là bộ Tấn trò đời của Balzac, người ta tưởng như tiểu thuyết đã đạt tới đỉnh cao của mình và không có gì cần phải cải tiến, cách tân nữa. Với cấu trúc hướng ngoại, tiểu thuyết hiện thực phê phán đạt tới mô hình kể chuyện mẫu mực. Trong tinh thần đó, tác giả của nó thực hiện sứ mạng là “người thư ký trung thành” của thời đại khách quan xã hội, từ đó, tác giả trở thành “người biết tuốt” về mọi diễn biến của câu chuyện, điều khiển mọi sự vận hành của cấu trúc tiểu thuyết.
Cho dù cái không khí khai hội Tao Đàn có náo nhiệt đến đâu thì cũng không vì thế mà Hoài Thanh quá cao hứng để giành cho Tản Đà những lời khen tặng danh giá nhất, gọi ông là con người của hai thế kỷ và trích đăng tới hai bài thơ của Tản Đà để mở màn cho Hội Tao Đàn Thơ Mới, đó là bài Thề non nước và bài Tống biệt! Quả là Hoài Thanh có “Con mắt xanh” khi đánh giá Thơ Mới và thơ Tản Đà.
"Mắt bò cái" - so sánh thơ kiểu này là của văn hóa phương Đông hay phương Tây? Hẳn là của Tây rồi. Nhưng cái việc nhiều nhà thơ trẻ dùng hình ảnh mà nhiều người cho là "lạ và hay" này có phải là của lớp nhà thơ trẻ? Đọc bài này của Văn Giá hẳn sẽ sáng tỏ hơn (Mai Bá Ấn)
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.