Cái (tĩnh) và (động) ấy chỉ để bộc lộ một cõi lòng, một tâm trạng cô đơn và buồn! Thi nhân ngồi nhớ người xưa, lòng ông lặng lờ buồn bã như dòng nước hắt hiu, nhưng trái tim ông vẫn bổi hổi, xốn xang như làn "hoa bắp lay"...
Trường ca viết về thời chống Mỹ miêu tả nhiều hình ảnh đẹp, chân thật, sinh động về những người anh hùng của đất nước. Nhưng có lẽ chưa bao giờ hình tượng người phụ nữ lại được các nhà thơ dành cho nhiều trang viết đến như vậy. Cảm xúc mãnh liệt dạt dào về người phụ nữ Việt Nam kiên cường, nhân hậu, thuỷ chung… đã được khắc đậm trong trường ca.
Vì sao con đường sáng tạo của một nhà văn có tâm hồn phức tạp, tinh tế, sâu thẳm, và tài năng lớn (để là tác giả của tất cả những tác phẩm trên đây) dường như bị chững lại? Đó có phải là một sự suy thoái trong sáng tạo?
Có lần nhà thơ Lê Đạt trò chuyện, theo bà cô ruột, người đã nuôi ông từ tấm bé khẳng định, ông sinh năm 1928, tức tuổi con Rồng, chứ không phải năm 1929 như trong khai sinh, tuổi con Rắn. Ông tự điều hoà và hóm hỉnh nhận tuổi mình gồm cả hai là Rồng và Rắn. Rồi ông nghĩ có lẽ vì vậy mà ông thích làm thơ từ khi còn nhỏ. Và, rồi ông nhớ lại mình đã sớm ấp ủ mộng cách tân thơ, cho dù chưa biết sẽ làm như thế nào và bắt đầu từ đâu. Sau này, ông nhận mình đã chịu ảnh hưởng từ thơ Mayakovsky, những áng thơ quảng trường mạnh mẽ, ẩn chứa tính công dân rất dữ dội có tác dụng trực tiếp vào đời sống cộng đồng với những ngôn từ có sức khám phá lạ kỳ. Quả nhiên sau hơn nửa thế kỷ âm thầm làm phu chữ, ông trở thành một kỳ nhân trên cánh đồng thơ Việt…
Trong nghệ thuật sân khấu, các buổi biểu diễn của diễn viên không phải giống nhau trăm phần trăm mà có sự xê xích, trồi sụt đáng kể, tùy thuộc vào tình trạng tâm sinh lý của diễn viên.
Chiến tranh rồi sẽ qua đi nhưng di chứng của nó hằn lên số phận của những con người đã đi qua cuộc chiến thì vẫn còn nhức nhối mãi. Những số phận cá nhân mà truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh thời hậu chiến quan tâm thể hiện nhiều nhất có lẽ là số phận người lính và người phụ nữ thời hậu chiến.
Riêng Nguyễn Tất Nhiên không phải là đợi chờ, nhớ nhung, mong ngóng mà phải hớt hơ hớt hải để gọi tình. Gọi tình quay về, gọi người yêu dấu như... gọi đò
Cả hai bài thơ đều viết về Quê Hương ở hai thời điểm cách xa nhau gần 30 năm. Cho đến bây giờ , nếu tính từ bài Quê Hương – thi phẩm đã tồn tạihơn 70 năm. Người đọc, đọc lại - vẫn rạt rào cảm xúc!
Cách đây ít lâu, trên một số trang web, tôi đọc thấy bài quảng cáo tờ Nghệ thuật mới (phụ trương của Báo Người Hà Nội) sắp ra mắt bạn đọc, trong đó có đoạn: "Một lần nữa, nhà thơ Chế Lan Viên xuất hiện với chùm thơ chưa từng công bố cùng một trong những truyện ngắn hiếm hoi của ông". Tôi nóng lòng chờ đợi được đọc truyện ngắn nói trên, cốt để xem con phượng hoàng của làng thơ Việt trổ tài trong lĩnh vực này ra sao...
Trên văn đàn Việt, những bài thơ “xuất thần” của Hoàng Cầm mang một giọng điệu hết sức lạ lùng, tứ thơ cũng thật lạ. Chính ông đã cho ra đời một thứ lá mà không ai có thể tìm thấy trên thế gian này: lá diêu bông!
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.