Nói về trường-phái-nhóm thơ theo cùng thi pháp, phong cách, hơn một thế kỷ qua ở Tây phương, nhất là Pháp, Mỹ đã từng rực rỡ biết bao mặt-trời-thơ nhỏ to khác nhau. Với thơ Việt, từ sau thời Thơ Mới tới thời hiện đại rồi Hậu hiện đại, cũng đôi lúc lấp lánh các vì sao lạ, dự phần tỏa sáng bầu trời thơ ca nước nhà.
Tâm tình của Vũ Bình Lục khi viết về Tạ Vũ: Tôi thi thoảng đọc thơ Tạ Vũ, từ hồi còn là sinh viên ĐHSP Hà Nội. Biết bút danh Tạ Vũ, nhưng cho đến bây giờ, vẫn chưa một lần diện kiến. Đơn giản vì tôi xa Hà Nội cũng đã hơn ba chục năm, về hưu rồi, mới có cơ hội trở lại sinh sống ở Thủ đô! Mới đây, lần dở đọc lại Phụ san Thơ số 19-20 năm 2005 chợt gặp bài của Trịnh Thanh Sơn viết về Tạ Vũ, có in kèm 3 bài thơ của người thợ “sơn vôi” này, thấy cảm động. Hơn nữa, đọc kỹ 3 bài thơ được chọn in ở đây, mới thấy dần hiện lên một chân dung thi sỹ đích thực, rất tài hoa. Tôi, tuổi Mậu Tý (1948) lận đận long đong, tha phương cầu thực, cuối đời, ông trời mới cho một tý thanh thơi, không phải kính thưa kính gửi gì nữa! Không phải “chạy ăn từng bữa toát mồ hôi” nữa! Bây giờ thì đọc sách , viết văn chơi! Còn bác Tạ Vũ thì năm nay cũng đã chạm vách tám mươi rồi. Tôi cứ hình dung “thi sỹ quét vôi”, hoặc cao hơn một tý, “thi sỹ sơn vôi” Tạ Vũ, bây giờ chắc cũng xơ xác lắm rồi. Và mái tóc bạc phơ, chắc cũng không còn được bồng bềnh kiêu hãnh như trong tấm hình in trên tờ báo mà tôi đang có! Vậy nên, linh cảm mách tôi phải mau viết bài này, bình giải mấy bài thơ của Tạ Vũ, giới thiệu cùng bạn đọc. Và cũng để bác Tạ Vũ, như chiếc lá vàng lắt lẻo trên cây, được nhìn thấy, nghe thấy mấy lời nôm na của kẻ tri âm, một chút đồng điệu nào chăng?
Người ta vẫn bảo, thơ là Người. Người ư? Trần Quốc Thực chỉ có cái lối nhỏ chữ hơi điệu, có lẽ là do ngữ điệu, đôi mắt buồn dễ thương và nụ cười ấm áp, còn thân hình thì gầy guộc, xanh xao, lòng khòng, đôi dép lê và quần áo bạc màu, có lúc anh đeo cravat, mặc một cái vét màu ghi gì đó, tôi cứ tưởng tượng ra Thứ của Nam Cao.
Tôi nhớ mãi một câu chuyện về những người lính giữ chốt trên một quả đồi ven đường mòn Hồ Chí Minh trong chiến tranh. Họ bị bao vây. Những đơn vị ở bên ngoài không thể nào tìm cách tiếp cận được họ ngoài hệ thống liên lạc bằng điện đài. Khi cấp trên hỏi họ cần gì thì họ trả lời: “Chúng tôi cần thơ Phạm Tiến Duật”.
Công chúng của báo chí ngày càng bổ sung đông đảo các tầng lớp bình dân. Về khách quan, có nhân tố quyết định là cách mạng dân quyền tước đoạt nhiều đặc quyền, đặc lợi của giai cấp quý tộc và tầng lớp tăng lữ; mặt khác tỷ lệ người biết đọc biết viết trong dân chúng tăng lên. Các nhà văn nổi tiếng rời khỏi các thính phòng sang trọng để đến với công chúng của báo chí, nói là họ "ăn theo" báo chí cũng chẳng phải quá lời.
Cách đây mấy năm, chợt rộ lên chuyện một “bài văn lạ”. Thực ra, đây không phải bài văn, mà cũng chẳng có gì lạ. Lạ chăng, là có tờ báo và có vài nhà văn Việt Nam muốn chơi trò tung hứng, đưa một em học sinh “giỏi văn” mà không làm được đề thi về bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, em này bèn…thừa giấy vẽ voi, viết luôn một bức ‘tâm thư” nói rằng mình không có cảm xúc gì với bài “Văn tế…”, rằng tác phẩm này quá xa lạ với thế hệ em, nên không…làm bài. Lẽ ra, đó sẽ là chuyện…cười mà báo chí ở ta hay in sau mỗi mùa thi, nhưng người ta lại biến một em học sinh có lẽ là giỏi Game online hơn giỏi văn thành một “anh hùng” đấu tranh cho dân chủ học đường, một điển hình của sự trung thực(sic!). Và phía sau trò tung hứng lố bịch này là một âm mưu nhằm loại bỏ những tác phẩm yêu nước chống ngoại xâm ra khỏi chương trình sách giáo khoa. Chúng tôi xin giới thiệu một bài viết của nhà thơ-đạo diễn điện ảnh Đỗ Minh Tuấn viết trong thời điểm ấy để bạn đọc có cái nhìn đa chiều hơn về văn chương học đường nhân mùa thi đại học vừa kết thúc.
Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng: “Đòi hỏi duy nhất của nhà văn là cố gắng nhìn ra những khuôn mặt thật của con người”, và khi nhìn thấy nhau một cách thực sự mới có thể nói đến hòa giải. Cuộc gặp gỡ của những nhà văn Mỹ và Việt Nam trong hội thảo Văn học Việt Nam - Mỹ sau chiến tranh được tổ chức với mong muốn đó.
Mấy hôm nay do ảnh hưởng của cơn bão số 10, đất trời, rừng núi Danh sơn Yên Tử chìm ngập trong mưa giông, gió lớn. Trại Sáng tác VHNT của hội VHNT quảng Ninh với sự tài trợ của Công ty Cổ phần Phát triển Tùng Lâm sau khi khai mạc, hầu như không hoạt động được. Anh chị em văn nghệ sĩ không thể leo núi, tỏa vào rừng đồi, khe suối, hoặc các xóm bản trong khu Danh sơn để đi thực tế, tìm hiểu, thu thập tư liệu tích lũy cho công việc sáng tác. Xung quanh khu danh thắng không có dịch vụ Intenet. Tôi phải xuống văn phòng Công ty, may quá có một máy tính nối mạng. Tôi liền post bài viết dưới đây của tác giả Nguyễn Duy Liễm (sau khi vừa đọc xong tại Trại Sáng tác) viết về tác phẩm đang có nhiều dư luận cùng chiều và trái chiều trên Văn đàn văn học Quảng Ninh và văn đàn văn học cả nước. Xin trân trọng giới thiệu để bạn đọc tham khảo:
Cùng lúc đá “ba sân”: Thơ, văn xuôi, lý luận phê bình, gần 22 năm sống và làm việc ở nước ngoài, tính đến nay, Thế Dũng đã cho ra đời 15 cuốn sách đầy đặn, ngồn ngộn đời sống. Có những cuốn sách viết về thực tế trong nước sâu sắc và có cả thơ, tiểu thuyết, tiểu thuyết kịch xuất bản bằng tiếng Đức. Nhân dịp cuốn “Bên dòng sông tình sử” (tuỳ bút và đối thoại văn chương- Nhà xuất bản Lao Động 06-2010) của anh ra mắt tại Hà Nội, nhà văn Lê Anh Hoài trao đổi với Thế Dũng về nghề viết, về những nỗi ám ảnh của nhà văn và của một người Việt.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.