Với nỗ lực hoàn thiện và phát triển, văn học đương đại, đặc biệt giai đoạn từ 1986 đến nay, đã chuyển mình mạnh mẽ để tham gia vào diễn trình hiện đại và hậu hiện đại của văn học thế giới với những gương mặt tiêu biểu, trong đó có Hồ Anh Thái. Bài viết này phác thảo một Hồ Anh Thái qua những biểu hiện của văn học hậu hiện đại trong truyện ngắn trên một số phương diện chính: hệ thống đề tài, nhân vật và ngôn từ nghệ thuật.
Lịch sử phát triển của văn học xét cho cùng cũng là lịch sử phát triển của thể loại. Qua mỗi chặng đường phát triển, văn học sẽ hình thành nên những thể loại mới. Kí là một thể loại tiêu biểu, xuất hiện khá mới nhưng cũng khá phức tạp trong văn học Việt Nam hiện đại. Được xem là một thể loại rất cơ động, linh hoạt, nhạy bén, kí ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của mình trong việc phản ánh hiện thực cuộc sống con người và xã hội ở cái thế trực tiếp và tươi mới nhất.
Một buổi sáng cuối thu Hà Nội, có một người nhỏ thó đến tìm gặp tôi. Đó là ông Khúc Ngọc Chân, từng chơi cello ở Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam. Ông nói rằng ông có bài thơ về tổ tiên được khắc trên bia đá tại đền thờ họ Khúc ở quê. Dần dà, ông bắt đầu kể cho tôi nghe về hoàn cảnh ra đời của ca khúc Nỗi lòng người đi mà chính ông là tác giả với cái tên đầu tiên là Tôi xa Hà Nội.
Người gọi ông là “ba đỉnh núi sương mù”. Người gọi ông là “Dòng sông ba nhánh”. Người gọi ông là “Nghệ sĩ đa tài”. Người gọi ông là “Bậc tài danh thế kỷ”… Khi tôi gặp ông thì ông đã 57 tuổi, chòm râu dài phất phơ ngả bạc như tiên lão bảy mươi. Ông ngồi một mình trên đi-văng đệm vải cũ càng, mắt nhìn vào chén rượu gạo bình dân như chẳng chờ đợi một điều gì. Có lẽ ông đã ngồi như vậy mấy chục năm liền. Những chai rượu đầy vơi vơi đầy không nhớ đã bao lần.
Lịch sử sang trang vào năm 1975, điều ấy ai cũng biết. Nhưng văn học không sang trang đồng bộ với lịch sử hay có lẽ nói cho đúng hơn: Nó không cùng sang trang được ngay vào thời điểm ấy. Nó còn chảy theo quán tính một thời gian nữa, hình như cho đến quãng đầu 1980. Điều này cũng đương nhiên, và đúng với lý luận phản ánh của Mác: Ý thức bao giờ cũng chậm hơn, khi ít khi nhiều.
Các nhà thơ, những người vốn có ăng ten nhanh nhạy nhất không thể không nghe thấy lời nhắc này và không thể không giật mình: thế thơ có chuyển động không, hay vẫn theo nếp cũ của thế kỷ trước?
Trong cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu viết năm 1985, xuất bản năm 1987, tôi có nhận xét rằng: Xét về sức tác động trực tiếp đối với công chúng thì thơ Tố Hữu có thể sánh với bất cứ hiện tượng thơ kiệt xuất nào trên thế giới. Đó là một sự thực mà không ai có thể phủ nhận khi chứng kiến sức thu hút của thơ Tố Hữu trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
Trong thời đoạn Thơ mới, những sáng tác của Xuân Diệu và Huy Cận cho chúng ta thấy ít nhiều sự khác biệt trong hình thức nghệ thuật của họ. Một cái nhìn tổng quan về thể thơ, cú pháp và từ ngữ có thể cho thấy ý hướng lựa chọn của mỗi tác giả.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.