Đọc lại thơ của Nguyễn Trường Tộ, ta hiểu và trân trọng tâm sự sâu kín, cao đẹp của ông. Nghiền ngẫm 58 bản "Điều trần", ta không khỏi ngạc nhiên trước sự kiên trì và trí tuệ phi thường của ông. Nhìn chung những di cảo ấy giúp ta hiểu nhân cách và tài năng của một người Việt xuất sắc hiếm thấy: Nguyễn Trường Tộ.
Sự kiệm lời của Thanh Tâm Tuyền về thơ, về thơ của ông, làm như cũng gắn bó với quan điểm tự khởi đầu của ông, rằng những bài thơ rốt lại cũng chỉ là "những bằng chứng của một đời sống", thế thôi, không nên gán cho chúng những hào quang mà chúng không muốn có. Nhưng mà cái đời sống như ông nhìn thấy thì có thể (có thể thôi) cũng ít người thấy được đúng như vậy, và vì vậy mà có những sự cho rằng thơ ông khó hiểu, khó đi vào với số đông. Điều này theo tôi là một sự oái oăm, vì cũng chính Thanh Tâm Tuyền là nhà thơ có lẽ đầu tiên trong thơ Việt Nam nhìn thấy thơ như một phép thông công với kẻ khác.
Tôi không đọc được nhiều thơ Đồng Đức Bốn. Phần vì quan niệm của tôi, thơ lục bát cũng như các thể thơ có vần điệu, âm luật khác, là của một thời đại đã qua, của những trạng thức tâm hồn đã ổn định, ít khi đưa được vào nó những chuyển biến của ngôn từ và tâm thức con người hiện thời. Tức là thơ có vần luật dễ làm nảy sinh những hạn chế trong quá trình phát lộ tâm thức cũng như những chứng nghiệm tâm hồn, tri thức độc đáo, bùng nổ và bỏ quãng so với cái có trước, của con người đương đại. Mà nhà thơ Đồng Đức Bốn là người viết tuyệt đối trung thành với lục bát cùng một số thể thơ có vần điệu âm luật khác.
Tâm sự nàng Thuý Vân, thì người đọc ngùi ngùi, động lòng thương cảm. Đó là một phát hiện độc đáo của nhà thơ Trương Nam Hương, mở ra các cách tiếp cận khác nhau, để ta hiểu biết thêm tính phong phú, sâu sắc đa dạng của tác phẩm bất hủ - Truyện Kiều.
Nhà thơ Phạm Khải phân tích: “Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp/ Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông” - trong bài “Cảm tưởng đọc Thiên gia thi”, Hồ Chí Minh đã viết vậy. Nguyễn Duy là thi sĩ của thời nay, song thơ anh vẫn cứ tràn ngập “mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”, nghĩa là những hình ảnh đã quá quen thuộc trong thơ kim cổ. Điều đáng nói là chỉ bằng vào một số chất liệu ấy thôi, Nguyễn Duy vẫn đủ sức gây mê độc giả, vẫn thổi được vào tác phẩm hơi thở của cuộc sống đương đại. Là bởi thiên nhiên trong thơ anh không đứng tách riêng một mình mà luôn gắn với hoạt động của con người. Trong bài “Đám mây dừng lại trên trời…”, Nguyễn Duy không tả màu sắc, hình dáng của một đám mây mà nêu hiện tượng: “Đám mây dừng lại trên trời…để cho dưới đất đám người chạy mưa” từ đó đem đến cho người đọc những liên tưởng thú vị.
Cho dù Platon có sai đến mức nào, ông cũng đã nắm chắc được vấn đề căn bản của văn nghệ, đó là vấn đề quan hệ giữa văn nghệ và nhân sinh suy cho cùng là như thế nào...
Gần đây, PGS.TS Chu Văn Sơn có viết một tiểu luận công phu về thơ Nguyễn Quang Thiều. Sau khi bài viết ra đời, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã có một bài viết "phản đối" Tiểu luận của Chu Văn Sơn. Để bạn đọc tiện theo dõi và cảm nhận, BK.org xin giới thiệu cả hai bài viết này (TS Mai Bá Ấn)
Thơ Chi Lan buồn, nhiều tâm trạng của một người có lẽ đã đi qua nhiều bất hạnh cuộc đời. Nhưng thơ Chi Lan cũng không bi quan mà luôn “tươi” và “sáng” chảy một dáng riêng giữa dòng đời “vui ít hơn buồn”...
Nguyên tắc xác lập trường và những mối quan hệ của chúng, theo Bourdieu, dựa trên sự phân tầng (hiérarchie) các giá trị và sự tranh chấp của các tác nhân (agent) tham gia cấu thành trường tại các vị thế (position) để lấp những chỗ hổng cấu trúc (lacune structurale) sinh ra do sự dịch chuyển của cơ cấu xã hội.
Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa khắc nghiệt và yên lành với những biểu hiện sống động và biến hoá khôn cùng của chúng. Ở đó, trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình, thác lũ và êm trôi, tình yêu và cách trở, ra đi và trở lại, chảy trôi phiêu dạt và trụ vững kiên gan, tổ ấm và dòng đời, sóng và bờ, thuyền và biển, nhà ga và con tàu, trời xanh và bom đạn, gió lào và cát trắng, cỏ dại và nắng lửa, thuỷ chung và trắc trở, xuân sắc và tàn phai, ngọn lửa cô đơn và đại ngàn tối sẫm...
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.