Nguyễn Anh Nông là nhà thơ quân đội, người làng Chín Cảnh, xã Quảng Yên, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa. Năm 1980 khoác áo lính rồi làm thơ, kể từ tập thơ đầu tay xuất bản 1993 đến nay, Nguyễn Anh Nông đã có ngót 10 tập thơ và trường ca ra mắt bạn đọc.
Có thể nói rằng tư duy tương hợp là kết quả của quá trình khám phá, là một sáng tạo độc đáo của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực nói chung và Thanh Thảo nói riêng. Nó phù hợp với xu hướng nhận thức thế giới trong những mối tương quan, những liên hệ sâu xa giữa con người và ngoại giới, giữa vật chất và ý thức…
Theo họ, khó hiểu là một đặc trưng của thơ cách tân và là sản phẩm tất yếu của đổi mới thi ca, không dễ tiếp cận được với đông đảo người đọc. Nói cách khác nó rất kén chọn người đọc, càng khó tìm được tri kỷ tri âm. Có tác giả còn hào hứng lý giải rằng, điều đó phản ánh đúng sự phức tạp bí ẩn của tâm hồn con người; mỗi cá thể là một vũ trụ riêng, một thế giới riêng nên thơ cũng phải như thế.
Tôi không mấy quan tâm đến cách phân loại, khảo cứu thơ ca Việt Nam. Đơn giản, đó chỉ là cách để làm sách cho học trò. Thậm chí là thổi phồng những gì ở mức độ thao tác lên thành ý tưởng hay đóng góp. Làm thơ, ở thời đại nào, tư tưởng, phương pháp sáng tác nào cũng chỉ là chất liệu, phương tiện để đạt đến hồn dân tộc. Thứ mà chỉ có dáng dấp, hình hài, độ trầm, bổng, đậm nhạt thậm chí là rị mọ, quái gở ở xứ sở đó mới có. Cái hồn ấy được thi sĩ gọi ra, cả cộng đồng hò reo như anh ta vừa hạ thủ chú bò tót, vừa lấy trái tim mình ra soi đường. Bản chất thơ ấy ở Thanh Thảo hình như thành một tự giác khó cưỡng. Một thứ ngôn ngữ thô nhám hơn triết học nhưng tinh túy hơn bùn đất. Và, không cách gì nói về thơ hay hơn bằng cùng thử đọc thơ ông:
Đối với Hoàng Trần Cương, thơ ca là một mảnh vườn màu mỡ để anh “trồng cây sáng tạo”. Một điểm sáng nổi bật trong sự sáng tạo đó là về mặt thể thơ trong nghệ thuật thơ. Anh vận dụng nhuần nhuyễn cả thể thơ truyền thống lẫn thể thơ hiện đại, mà trong đó, chúng tôi đã khảo sát và nghiên cứu thấy rằng anh sử dụng rất nhuần nhuyễn thơ lục bát, rất điêu luyện ở thể thơ năm tiếng và biến tấu rất mực tài hoa ở thơ tự do. Có thể nói anh đã góp phần cách tân thơ Việt Nam hiện đại ở phương diện thể thơ.
Thu Bồn cũng là một trong số ít các nhà thơ Việt Nam hiện đại viết với một ý thức nghệ thuật rõ ràng, có những quan điểm nghệ thuật nhất quán và đã có những bài viết bày tỏ những quan điểm về thơ ca, về văn học và nghệ thuật của mình. Tập tiểu luận cuối đời Đánh đu cùng dâu bể (2002) thêm một lần nữa, khẳng định lại những quan điểm nghệ thuật của ông, qua những bài viết giới thiệu các tác giả, tác phẩm mà ông tâm đắc, trân trọng.
Ấy thế mà thật kỳ lạ,truyện ngắn Hoa Tigôn của ông vừa mới ra đời được khoảng hai tháng thì “lập tức” xuất hiện bài thơ Hai sắc hoa Tigôn của một tác giả “nặc danh” mang mấy chữ cái T.T.Kh cứ như thể muốn “đối đáp” lại.Đến đây,chúng ta có nhận ra một điều gì đó bất thường không?.Có vẻ câu nói của một nhà khoa học:“chẳng có gì tự nhiên sinh ra…” rất phù hợp trong trường hợp này…Chúng ta đã có thể nói rằng:-Không có Truyện ngắn Hoa Tigôn thì sẽ không có bài thơ Hai sắc hoa Tigôn và 3 bài tiếp theo hoặc không có nhà văn Thanh Châu thì sẽ không có T.T.Kh.?
Hàn MẠC Tử, đúng. Hàn Mặc Tử là sai. Một thư Hàn Mạc Tử viết gởi cho tôi có nói rằng: “Người ta thường gọi lầm tôi là Hàn Mặc Tử; phải gọi tôi là Hàn MẠC Tử, mới đúng”. Thư này, cũng như tất cả bút tích Hàn Mạc Tử viết cho ông Trần Tái Phùng, theo lời ông Phùng, ông để tại Ban Mê Thuột là nơi ông làm việc, và đã bị thất lạc tất cả, sau 1945.
Trên dải đất Việt Nam hình chữ S, từ bao đời nay, nông dân vẫn là lực lượng cơ bản chiếm tới 90% số lượng dân cư. Bởi vậy trong văn học, đề tài nông thôn bao giờ cũng là một đề tài lớn, luôn có nhiều khoảng trống hứa hẹn và thu hút sự quan tâm của nhiều thế hệ cầm bút.
“Đêm dịu dàng thế kia, và gió…” - tập thơ bạn đang cầm trên tay của Nguyễn Man Nhiên - có thể xem là một trường hợp khá tiêu biểu cho hướng đi của thơ Việt đương đại.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.