Đặng Hồng Sơn bây giờ làm chánh văn phòng nhà máy lọc dầu Dung Quất nhưng đã có thời là một “chàng lính trẻ măng tơ” nói như thơ Tố Hữu. Lính trong thời bình nhưng luôn nơm nớp có chiến tranh biên giới, lại ở vào giai đoạn quá đói khổ của cả một đất nước thời bao cấp đêm trước Đổi mới. Tôi muốn giới thiệu với bạn đọc những trang viết có độ thật thà cao nhất của một binh nhì, kể toàn chuyện linh tinh trong doanh trại lính. Văn học, nhiều khi chỉ là như vậy: thật thà, tinh, tếu táo, trong trẻo, thanh thản (thanh thảo) .
Trong vườn hoa thơ ca ấy có thể thơ Haiku của Nhật Bản với 17 âm tiết (5-7-5) thật đơn sơ và dung dị. Có thể ví von Haiku như chiếc lá bé nhỏ nhất trên cội cành xum xuê của cổ thụ ngàn thơ.
Nhưng rồi đến lượt nó, lí luận văn học hậu hiện đại (với giải cấu trúc) đã phá vỡ những giới hạn của tư duy lí luận văn học hiện đại nhằm tiếp cận một cách triệt để hơn bản chất của văn bản văn học, soi sáng những yếu tố gây nên sự bất ổn của nghĩa, trả lời câu hỏi tác phẩm văn học là hình thức ngôn ngữ đặc trưng hay là hình thức đọc đặc trưng, vai trò của sự đọc sai, hiểu sai văn bản văn học là gì…?
Nhóm Việt gần như là nhóm văn học nghệ thuật duy nhất tồn tại lâu dài đến như vậy trong phong trào đấu tranh đô thị ở miền Nam. Ở tuổi 20, hành trình sáng tác của những cây bút trẻ gắn liền với những biến cố lịch sử 1965-1975, trong đó, những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.
Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” (*) của Bảo Ninh trong hai mươi năm qua, ở trong nước, đã tạo ra những luồng nhận định khác nhau và trái chiều nhau, nhất là ở thời điểm sau ngày được trao giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, một năm sau khi nó được chính thức xuất bản (1991). Cũng về nó, nhưng ở nước ngoài, hầu như các bình luận đều một mực đề cao. Gần đây nhất, một giải thưởng từ Nhật Bản đã được trao cho “Nỗi buồn chiến tranh” với ý kiến đánh giá rất cao, rằng đó là “tinh hoa của văn chương nhân loại”.
Vấn đề “tính phức điệu”, được Bakhtin (1895-1975) đề xuất cách đây gần nửa thế kỷ trong công trình nghiên cứu của ông về tiểu thuyết Dostoevsky, ngày nay đã trở thành một lý thuyết tự sự có ảnh hưởng khá lớn với nhiều ý nghĩa thực tiễn.
Song, nếu không có cái “vật chứng” là bài thơ Tình già của Phan Khôi thì chưa chắc họ đã nhận ra nhau sớm đến thế. Số là khi mới yêu nhau, hai người đều rất thích Thơ Mới, đặc biệt là bài Thơ Mới đầu tiên Tình già. Anh chàng Đa lại có biệt tài ngâm thơ, riêng với bài Tình già, anh chàng có lối diễn-ngâm rất độc đáo, rất xúc động khiến cho cô gái trẻ cười đến chảy nước mắt.
Nguyễn Bắc Sơn và thơ anh là một thứ "đặc sản" văn học của Phan Thiết, dân văn nghệ các nơi ghé vào thăm đất nầy thường tìm gặp anh cùng trò chuyện, uống vài ly đế thân tình, xong về nhà ngẫm nghĩ lại thấy "sướng" về đủ mọi thứ trên đời. Vây bọc quanh anh là những câu chuyện "động trời" về vụ mấy lần nhảy lầu tự tử mà không chết, cái anh chàng gàn dở, quen sống phóng túng, một gã du đãng bụi đời làm thơ, la cà với bạn bè mọi nơi, mọi chốn, airủ đi chơi là đi liền, bất kể trong túi có tiền hay không, khiến cho người vợ lặn lội khắp nơi, kiếm đỏ con mắt đưa lên xe chở về nhà…
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.