Tôi đặc biệt thích tập truyện ngắn này hơn tập truyện trước (Gia tài tuổi 20) của Lưu Quang Minh vì có vài tác phẩm với nội dung rất mới, rất lạ và rất “viễn tưởng” (Điều bí mật; Thương quá, Nhồng ơi…), đủ viễn tưởng để ta còn nhận ra được ý nghĩa bình dị ẩn đằng sau ấy.
Tập thơ Giờ thứ 25 của nhà thơ Phạm Đương đã đoạt 1 trong 3 giải thưởng thơ của Hội Nhà văn Việt Nam năm nay. Sau những ì xèo xung quanh giải suốt mấy ngày qua, dự kiến sáng nay (21/1), Ban chấp hành Hội Nhà văn sẽ họp để nghe ban chung khảo báo cáo về kết quả chấm giải và sẽ có quyết định chính thức.
Có thể nói xứ Huế là một trong những yếu tố hình thành nên chất nhạc của Trịnh, bởi không gian và thời gian ở Cố đô như chuyển động chậm hơn những vùng đất khác nhưng lại hàm chứa những linh khí của trời đất và tràn trề bầu nhiệt huyết, vì vậy mà giai điệu thướt tha, bi thiết trong các tình khúc của anh mang đậm âm sắc xứ Huế.
Tôi nhận được thư Vỹ, đã hai lần tôi viết thư trả lời nhưng đọc lại tôi lại xé đi. Vì muốn trả lời một bức thư như vậy thật không đơn giản chút nào. Vì tôi nghĩ đó không chỉ đơn thuần là bức thư của tình bạn, mà còn là bức thư của một nhà văn gửi cho một nhà văn. Mà hoàn cảnh của người viết văn cần trả lời lại rất phức tạp, rất không giống những nhà văn của bất cứ nước nào. Ở đây, tôi hoàn toàn không muốn đề cập đến tài năng (về tài năng tôi lúc nào cũng tự đánh giá mình là hầu như không có gì. Và những gì tôi đã làm được là do cuộc đời và tấm lòng chiến sĩ của tôi).
“Bốn mùa trời đất tươi nở tâm hồn suốt một đời thơ. Đó chính là hình ảnh quê hương đất nước Việt Nam muôn vàn thân yêu với vẻ đẹp tuyệt diệu hiện thực mà kỳ ảo, chuyển vần biến hóa tháng năm theo dòng lịch sử…”
Từ Thái Nguyễn, Nguyễn Đăng Tiến và Nguyễn Du, Nguyễn Quýnh đi ngựa sang Vân Nam vào cuối năm 1787. Đến nơi Nguyễn Du không quen khí hậu bị bệnh ba tháng mùa xuân. Hết bệnh Nguyễn Du muốn « thoát vòng trần tục »xuống tóc thành nhà sư Chí Hiên..với dựđịnh đi Trường An và và hẹn gặp lại Nguyễn Đại Lang tại Miếu Nhạc Phi, Hàng Châu. Đến Liễu Châu hai người chia tay Nguyễn Đại Lang về Quế Lâm, chốn quê cũ thăm nhà,Nguyễn Du có 4 bài thơ tiễn biệt Nguyễn Đại Lang : một bài Lưu biệt Nguyễn Đại Lang và ba bài thơ ngũ ngôn Biệt Nguyễn Đại Lang. Các bài thơ này làm khoảng tháng tư năm 1788 , sau ba tháng mùa xuân bị bệnh và sau đó hành trình đi từ Côn Minh, Vân Nam sang Liễu Châu..
Quảng Ngãi không chỉ nổi tiếng về đường và quế mà còn là sinh quán của nhiều nhà thơ lớn của dân tộc như Bích Khê, Tế Hanh, Thanh Thảo, Lâm Anh, Nguyễn Trung Hiếu, Xuân Thới, Khắc Minh, Nguyễn Tấn On ... và trẻ hơn, ở độ tuổi trung niên, có Đinh Tấn Phước, Mai Bá Ấn, Nguyễn Ngọc Hưng ... Ngôn ngữ thơ của họ phản ánh sức sáng tạo tự thân và lao động nghệ thuật công phu để cho ra những vần thơ giàu chất suy tư và thắm đẩm tình người.
Tôi biết nhà thơ Giang Nam qua bài thơ Quê Hương từ thuở thiếu thời. Tên tuổi và tác phẩm của ông lừng lững trên thi đàn được tôi chép vào sổ tay thơ cùng với những bài thơ đi cùng năm tháng khác. Mãi đến gần đây, do yêu cầu công việc nên tôi mới có dịp nhiều lần đến căn nhà số 46 Yersin của vợ chồng ông nằm yên bình giữa thành phố biển Nha Trang (Khánh Hòa). Quả thực, lần đầu tiên được diện kiến, tôi không khỏi bất ngờ vì Giang Nam lại có nhân dạng tướng mạo khá cứng cáp so với cái tuổi 85 của một đời người...
Trong thế giới thơm đó, mai vàng và đào phai lại như những loài “hoàng hoa” của buổi lập xuân rỡ ràng đón chào một năm mới. Hoa mai rất gần với đời sống của người Việt và đi vào thơ ca như một lẽ hiển nhiên. Đào hoa tươi thắm hình như muộn mằn hơn bởi cái tính đỏng đảnh của một loài chỉ ưa giá rét. Nói hình như thôi bởi không có gì làm chắc chắn bởi chẳng mấy ai đi đong đếm cái vẻ đẹp riêng tư hớn hở của một loài hoa.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.