Có đêm nằm mơ thấy mình ngồi ăn cơm với nhà thơ Phạm Hổ, giữa bữa, đứng lên bảo sang rủ thêm anh Vũ Cao. Tỉnh dậy, giật mình thấy cả hai ông vừa ngồi với mình đã thiên cổ từ mấy năm nay. Ngậm ngùi, lan man nghĩ tới bao gương mặt bạn bè. Thoáng chốc mà xa thẳm. Chợt nhớ bà ngoại xưa, sáng dậy thở dài: "Tao bây giờ toàn sống với người đường âm".
Nếu như “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh xoáy sâu và bi kịch tình yêu và bi kịch con người thời hậu chiến với những ám ảnh chiến tranh thì Trần Vàng Sao đã tái hiện sắc nét một tiếng khóc lớn của những người đã hy sinh trong chiến tranh nhưng vẫn mang trọn nỗi bi kịch - bi kịch của liệt sĩ thời hậu chiến.
Thơ văn thời Lý-Trần, đã được sưu tầm, nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau, từ quy mô Nhà nước, đến các công trình nhỏ lẻ của các cá nhân, ở những góc nhìn khác nhau, phạm vi tìm hiểu cũng khác nhau.
Thật ra, những dư luận cũng đã qua khá lâu, nhưng gần đây tôi mới tình cờ biết được nên nghĩ tác giả Lính Mà Em lên tiếng cũng không thừa, trước hết để tránh sự ngộ nhận không đáng có, thứ hai là đưa ra nguyên bản bài thơ để những người yêu Lính mà em có một bài thơ đúng nghĩa.
Qua khảo sát tiểu thuyết sau 1975, chúng tôi nhận thấy, mờ hóa tiểu sử, nhân dạng và phá vỡ những khung tính cách của nhân vật là hai phương diện thể hiện nổi trội hơn cả thủ pháp độc đáo này.
Đó là một điều không ai hiểu nổi vì suốt ngày thâu đêm, người ta chỉ thấy một Bùi Giáng lang thang rong chơi, nhảy múa ngoài đường. Thường uống rượu lu bù với mọi giới bình dân đây đó, bạ đâu ngủ đấy ngay ngoài vĩa hè xó chợ, rong rêu lêu lổng khắp đầu phường cuối phố, ngao du trào lộng giữa ta bà. Ông sống không nhà cửa, không vợ con, không tài sản, không sự nghiệp, không danh lợi, không là gì cả ngoài một bầu rượu túi thơ và một bộ quần áo xốc xếch cũ mèm, rách nát tả tơi. Trông giống như một Tế Điên, một gã ăn mày quái dị lạ lùng.
Tôi nghĩ: mỗi năm sinh thêm 100 người làm thơ, 50 người sẽ viết đơn xin vào hội. Càng ngày số đơn càng tăng lớn mà chỉ kết nạp mấy phần trăm thì nhiều người có đến đời tám hoánh cũng chưa vào được hội.
Không có tác phẩm văn chương nào được đưa vào chương trình Ngữ Văn THCS mà tính hai mặt của nó lại rõ, phức tạp, nhiều phân vân trong giảng dạy như Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn. Theo tôi nghĩ, chưa nên đưa bài Chiếu dời đô vào chương trình Ngữ văn ở bậc học này.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.