Những ngày lão nhà văn cưỡi ngựa đi thực tế, bao đêm ngồi bên nồi cao hổ hàn huyên rồi trở về viết bút ký gửi bản thảo qua đường bưu điện lên nhờ ông Hinh “đóng góp thêm ý kiến”, cả khi không Hinh trở về phố Trần Hưng Đạo (Hà Nội) tìm thăm tác giả “Người lái đò Sông Đà” thì cũng là lúc nghe tin ông bạn vong niên nhà văn ấy đã khuất núi…
Có một điều buồn nhất ở ĐH- đó là khi thấy mọi người không chịu nghe nhau. Các nhà văn già trẻ gái trai từ khắp mọi miền đất nước từ thành phố đến nông thôn, từ miền núi đến vùng sâu vùng xa. Đến được với ĐH mất bao nhiêu là đường đất, là công sức là thời gian cốt được bày tỏ lòng mình, sự quan tâm của mình trước cuộc sống còn nhiều khó khăn, trước cánh đồng văn chương mênh mông không dễ cày xới...vậy mà chả ai buồn nghe ai, chả ai buồn tôn trọng ai . Ai cũng cho rằng điều đó là “khổ lắm, biết rồi, nói mãi”! Thế thì đến ĐH làm gì? Chỉ chăm chăm để bầu bán thôi ư?
Một số nhà văn, nhà lý luận phê bình mà anh em nói vui là “bảo hoàng hơn vua”; họ cũng tỏ ra trung thành mẫn cán nên phát hiện tác phẩm có vấn đề. Số này ít hơn, nhưng nhiều hơn là hay phát biểu không làm lợi cho tự do sáng tạo hay khuyến khích sự sáng tạo mà bằng tiểu luận xu nịnh và chính trị hoá những vấn đề học thuật, ví dụ tỉnh Y anh hùng, các nhà văn phải có tác phẩm xứng tầm với anh hùng của Y, với đòi hỏi chính đáng của nhân dân. Nhân dân nào ở đây?
Trong sinh hoạt văn chương quê nhà, ở hàng ngũ của những nỗ lực thanh niên, trẻ, mới, trong vòng ít năm qua, Phạm Thị Ngọc Liên đã bứt lìa đám đông, những người cùng thời với Phạm, để bước tới với chiếc bóng đìu hiu của chính mình. Nhưng đó là sự đìu hiu của những ngọn pháo bông, ở một mặt nào khác.
Những chuyện tôi đang viết đây mới chỉ là chuyện của hơn bốn mươi năm về trước. Nhưng nó mang không khí của một thời đã quá xa xăm. Nó như từ những thế kỷ trước. Tôi hoàn toàn tin rằng, nếu bà sống cho đến tận ngày nay, trong thời đại có qúa nhiều biến động và có quá nhiều điều kiện vật chất thì bà vẫn sống như vậy.
Em đi mỗi nhánh, con sông bước qua nằm cùng, là những so sánh và nhân cách hóa lạ. Tác giả như bị ám ảnh về cây tróc gốc và chia lìa tan tác không có trong hai tập thơ trước. Hình tượng gần như ảo giác và ám ảnh buồn rầu đó, phải chăng đến với ông giai đoạn "hậu giải phẫu" vào tháng 8 năm 1988, sau khi ông phải đi trị chứng ung thư cổ. Đó là vì ta liên tưởng cách phân tích thơ do bệnh lý ám ảnh, giống như thơ Hàn Mặc Tử sau khi vào trại Cùi ở Quy Nhơn. Nhưng căn cứ vào một số bài thơ tình yêu thanh thoát ông sáng tác cũng trong giai đoạn trên, và dù trong hoàn cảnh nào vẫn tiếp tục sáng tạo tân kỳ (như hình tượng con trăng xuống uống nước - hoặc con trăng chính là người trong cơn say uống được ba phần chai rượu), ta lại có một kết luận khác: Nguyên Sa là nhà thơ luôn luôn tìm cái gì mới cho thơ mình, một nhà thơ trọn đời hệ lụy với thi ca
Nhà văn Mai Thảo cho biết, theo ông trong vòng nửa thế kỷ qua, trên vòm trời thi ca của Việt Nam, có tất cả 7 vì sao bắc đẩu, mà Du Tử Lê là một trong 7 vì sao đó. Trước đấy vài năm, trong một bài viết đăng tải trên Tạp chí Thế Kỷ 21, số 29, đề tháng 9, 1991, Nhà thơ Nguyên Sa cũng nhận định rằng: "Bây giờ tôi nghĩ rằng Du Tử Lê đã đi xa hơn những người làm thơ cùng thời với anh một quãng đường, trông như gang tấc, mà trong thơ xa vạn dặm."
Trong lòng dân, các nhà văn là những công dân gương mẫu, những tâm hồn cao đẹp, viết ra những tác phẩm nói được tâm nguyện người dân, thắp lên ngọn lửa tin yêu và hy vọng, dũng cảm chống bọn sâu dân mọt nước… Thế mà gần hai tháng qua, trên một số tờ báo và các trang mạng (website), người dân đọc phải những bài phi nhân văn, nói xấu nhau, chẳng ra thể thống gì… Tại sao lại đến nông nỗi này? Tại sao nhà văn ta không làm con chim báo bão, tha thiết yêu nước, yêu dân tộc, xả thân vì Độc lập, Tự do, toàn vẹn lãnh thổ, vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh?
Đông Hòa Nguyễn Chí Hiệp gốc Bắc, sinh Nam, suốt đời lận đận cùng thơ, gắn bó với thơ. Nguồn mạch thơ Đông Hòa tự nhiên hơn khi khởi xuất từ những cảm thức lịch sử cho dù về hình thức thơ anh vẫn trung thành cùng các thể cổ điển. Dấu ấn thơ anh chính là ở chất bình dị, dân dã và tự nhiên. Bichke.org xin giới thiệu trang thơ của anh đến bạn đọc.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.