Sáng nay nhà thơ Nguyễn Hoa gọi điện cho tôi báo 28/6 sẽ Đại hội Nhà văn khu vực Hà Nội, luôn tiện, anh báo tin cuốn sách NHÀ VĂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI tái bản có bổ sung đã làm xong bản thảo. Nhiều nhà văn trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm đã được bổ sung vào sách như Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu… Nữ nhà văn Thụy An cũng được đề nghị đưa vào, nhưng do chưa làm rõ được vụ án bỏ tù bà năm 1960 nên đành phảigác lại. Theo tôi được biết thì nhà thơ Lê Đạt và nhà Văn Nguyễn Hữu Đang đều khẳng định Thụy An chỉ chơi thân với một số người trong NVGP chứ không hề tham gia NVGP; và mong làm rõ lại vụ án để minh oan cho bà, dù bà đã mất năm 1989. Về các nhân vật trong nhóm NVGP, nhà nghiên cứu Thụy Khuê đã bỏ công tìm hiểu và viết về họ trong nhiều năm nay. Với trường hợp Thụy An, chị Thụy Khuê đã có một bài viết khá công phu, đưa ra nhiều tư liệu quý. NTT.ORG xin giới thiệu cùng bạn đọc bài viết này, hy vọng góp vào câu trả lời cho câu hỏi “Thụy An là ai?”
Hơn 300 trang. Hai mươi cái La Mã. In đứng. In nghiêng. Nhật kí. Thơ. Vật nhau với chữ, người viết đổ chổng kềnh. Nhưng cũng phải thừa nhận Nguyễn Thế Hoàng Linh kiên trì thật.
Với bút hiệu Trần Thy Nhã Ca, thơ Nhã Ca xuất hiện lần đầu trên tạp chí Hiện Ðại, số ra mắt, của nhà thơ Nguyên Sa chủ trương. Cũng ở số ra mắt đó, tác giả “Áo Lụa Hà Ðông” đã dành cho thơ Trần Thy Nhã Ca vị trí trang trọng nhất.
Thời nào cũng xuất hiện những nhà thơ trẻ. Họ trẻ cả về tuổi đời và trẻ trung trong cảm xúc, tư duy và ngôn từ. Họ tạo ra hình thức như chính họ không an bài trong những “kiểu mốt” thời trang quen thuộc ngoài đời. Sự “đập phá” những khuôn thước cũ để đưa ra những hình mẫu mới là bản chất, hay nói cách khác là tâm lý chung của tuổi trẻ khao khát sáng tạo nhằm khẳng định chính mình.
Một Tiến sĩ Văn chương, một nhà thơ lại dạy ở một trường với một ngành nghề rất xa thơ, rất khó nên thơ (Trường Cao đẳng Tài chính Kế toán), vậy mà… Mai Bá Ấn vẫn làm thơ như lấy tình yêu học trò, tình yêu trường từ trong lòng mình bày ra trang giấy vậy. Thế mới biết: khi xúc cảm chân thật và tràn đầy thì thơ tuôn ra trong bất kỳ tình huống nào, kể cả những tình huống rất… xa thơ.
Đằng sau câu thơ “váy Đình Bảng buông chùng cửa võng” là sự ẩn giấu một phản xạ vô thức khát vọng của con người tự nhiên, mà không một người nào không có. Nhưng có dám nói thật lòng mình hay không thì chẳng phải ai cũng có thể. Chỉ riêng điều ấy thôi, chúng ta là những người đang sống trong thời kỳ hội nhập và phát triển hôm nay cũng cần phải cám ơn nhà thơ Hoàng Cầm, người cách đây gần một nửa thế kỷ đã dũng cảm nói lên một sự thật vừa kín đáo, tế nhị lại vừa không dễ được mọi người chấp nhận, vì những ràng buộc của thói đạo đức giả phong kiến đã ăn sâu vào tiềm thức của con người hàng bao đời nay. Nhưng biết đâu đấy chẳng là nguyên nhân sâu xa khơi gợi trò chơi đố- tìm giữa hai chị em, để rồi nó vĩnh viễn trở thành bài thơ bất hủ trong lịch sử văn học Việt Nam.
Ðó là giai đoạn xuất hiện những tên tuổi như Dương Nghiễm Mậu, Quách Thoại, Nguyễn Ðình Toàn, Trần Dạ Từ, Mai Trung Tĩnh, Ðỗ Quý Toàn, Sao Trên Rừng (Nguyễn Ðức Sơn), Viên Linh, Nguyễn Xuân Hoàng, Diễm Châu v.v… Hàng ngũ đông đảo những cây bút tiêu biểu này, dứt khoát tiến về phía trước, đã giúp cho con tầu văn học, nghệ thuật miền Nam vừa rời bến, còn dùng giằng, lưu luyến bờ cũ, thẳng ra biển khơi.Trong bối cảnh này, thơ Trần Thy Nhã Ca xuất hiện.
Thuở nhỏ, học phổ thông ở miền Nam, tôi đã đọc Nhã Ca và biết tiếng tăm lừng lẫy trên văn đàn miền Nam thời ấy. Nhưng tuổi học trò chỉ mới biết đọc vu vơ. Gặp bài viết của Du Tử Lê (một nhà thơ cũng nổi tiếng văn đàn miền Nam trước 1975) viết về Nhã Ca. Xin được giới thiệu cùng bạn đọc (Mai Bá Ấn)
Trong vương quốc tình yêu tôn giáo của Hoàng Cầm, tình cảm chị em cũng được nhà thơ khai thác vì quan hệ này bao hàm được hai khía cạnh đặc trưng cho mỹ tục của vương quốc này là: cái rạo rực của giới tính và sự ngưỡng mộ thành kính của người trên.
Tình yêu của thi sĩ họ Hoàng trong "99 tình khúc" là tình yêu đặc biệt với những xúc cảm thẩm mỹ vừa trần thế vừa tôn giáo, vừa khao khát chiếm hữu và chiêm ngưỡng rụt rè, song tư thế cơ bản của thi nhân trong tình yêu là tư thế ngước nhìn lên. Những váy yếm xiêm y trong thơ ông là những vật thiêng luôn luôn được đặt lên cao lung linh như sao và phấp phới như cờ hội mà thi sĩ phải ngẩng lên mà chiêm ngưỡng như những vật thờ.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.