Nhưng có lẽ điều kỳ diệu trong thơ tình yêu của Y Phương nói chung và “Vũ khúc Tày” nói riêng chính là nội lực yêu, cường độ yêu phập phồng, quậy cựa đến tận cùng sinh nở.
Ngày 21 tháng 2 năm 1900, trong thư của L.Tôn-xtôi gửi cho M.Gorki có viết: Tôi thích các tác phẩm của ông. Nhưng tôi thấy ông còn hơn các tác phẩm ấy. Lời chỉ dẫn này đã đưa tôi đến với nhà thơ Nguyên Hồng.
Nhà thơ Anh Ngọc: Nguyễn Việt Chiến là một người sống và làm nghề có ý thức. Những vấn đề cấp thiết của đời sống - mà một số trong đó mang tính vĩnh cửu - được anh quan tâm nồng nhiệt, luôn giành cho chúng vị trí hàng đầu trong thơ mình. Đó là những suy nghĩ và cảm xúc mang tính công dân, mang phẩm chất của con người xã hội.
Con ta lớn lên thành chủ nhân đất nước
Điệu nhảy Disco không có chương tưởng niệm cánh rừng
bị cháy trụi bởi những trận mưa màu trắng, sự thiêu đốt trắng
Lấp lánh trong mơ đồng đôla xanh, đồng đôla trắng,
những cơn phê màu trắng, cuộc du hoan những tòa tháp trắng
Khát một chân trời nhạc trắng
Phùng Cung chắc chắn là nhà thơ quê lớn cuối cùng. Thơ Cung là lần xuất hiện rực rỡ sau chót của những hình ảnh suốt bao nhiêu thế hệ từng hết sức gần gũi với tâm hồn Việt Nam. Vậy hãy kiên nhẫn tiếp tục lắng thêm cái tiếng đã gần thành dư âm.
Ở nghĩa trang Gò Dưa, quận Thủ Đức Thành phố Hồ Chí Minh có ngôi mộ của ông Đinh Văn Dõng, bia mộ đề nguyên quán: Nam Trung - Thừa Thiên-Huế. Ông Đinh văn Dõng là thân phụ của họa sĩ Đinh Cường. Té ra Đinh Cường là người Sài Gòn, gốc Huế.
-Báo Tin Tức Chúa Nhựt, 3.11.1940 mở đầu bằng mấy hàng như sau: “Hai mươi chín tháng Chín Annam (20 Octobre 1940). Thêm một ngày đáng ghi nhớ. Một người đã mất: cụ Sào Nam Phan Bội Châu” Báo Người Mới: số 4 (16.11.1940) kết thúc tin buồn “Hàn Mạc Tử đã qua đời” bằng một lời tương tự: “Chúng ta đã mất một người”
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.