Điều đặc biệt ở bài phú này là tác giả đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn những ngữ liệu có sẵn trong Truyện Kiều mà không hề gượng ép nên rất hấp dẫn. Tôi xin giới thiệu để các bạn cùng thưởng thức và mong các vị tìm hộ xuất xứ của bài văn vì người cung cấp không biết ai là tác giả và cũng không nhớ chép ở nguồn nào.
Vào dịp kỷ niệm ngày giỗ lần thứ 24 của anh chị tôi - nhà thơ Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ (18/7 âm lịch), cháu Lưu Minh Vũ chuyển cho tôi e-mail của đạo diễn điện ảnh Đặng Nhật Minh. Bức thư viết như sau:
Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, sinh ngày 16-8-1935 tại thị xã tỉnh Thái Bình, Bắc Việt, bên bờ sông Trà Lý nhưng sống thời thơ ấu ở làng Tường An, tổng Ô Mễ mà theo Duyên Anh là một làng nghèo nhất tỉnh Thái Bình (1). Xuất thân trong một gia đình nghèo, ông là con cả của một gia đình 7 người con. Thân sinh ông làm thầy lang, sau đổi ra buôn bán nhỏ. Ông học các trường tổng, trường tỉnh - tư thục Trần Lãm, rồi lên Hà nội học trung học. Ở quê nhà, Duyên Anh đã chứng kiến và sống những biến cố lịch sử 1945 và 1954. Duyên Anh di cư vào Nam cuối năm 1954.
Cảm quan đời sống thẩm nhập triết lý Phật giáo đã góp phần tạo dựng hình tượng không gian, thời gian, nhân vật, chuyển tải những chiêm nghiệm thế sự, nhân sinh mang tầm phổ quát, khiến Cánh đồng bất tận trở thành tác phẩm cắm mốc sáng tác Nguyễn Ngọc Tư nói riêng và văn chương Việt Nam đương đại nói chung.
Hiểu Bùi Giáng đã khó, hiểu thơ Bùi Giáng lại càng quá khó. Ông cứ “ngày tháng ngao du” giữa cuộc đời bụi bặm, bước chân nhảy múa xôn xao, la hét huyên thuyên trên đường phố Sài Gòn. Rồi ông lại hàng giờ ngồi lặng như thiền dưới một tàn cây để thẫn thờ đếm những chiếc lá rơi tịch lặng. Có khi rong chơi suốt thời gian dài như kẻ không nhà. Có lúc lại đóng cửa nằm nhà hoặc đu đưa trên chiếc võng dưới tàn cây trong vườn suốt hàng tháng trời tịnh khẩu. Lúc như Bồ tát, lúc giống ăn mày; lúc tỉnh lúc điên, lúc đi lúc ở… Một thân phiêu bồng, một hồn cố quận, không biết nơi đâu là chỗ dừng chân…
Phùng Quán sinh năm 1932, tại làng Thanh Thủy Thượng, tổng Dạ Lê, nay là phường Thủy Dương, huyện Hương Thủy.
Với tấm lòng của họ thân thuộc và bè bạn trên khắp đất nước, ông đã được đưa về quê nội nơi đây. Một cuộc “trở về” gợi thật nhiều kỷ niệm…
Nguyễn Thị Vinh là nhà văn nữ có vẻ đẹp đằm thắm, phúc hậu – nét đẹp Thúy Vân. Những tưởng với vẻ đẹp ấy, cuộc đời nhà văn sẽ trôi đi êm ái; không ngờ cuộc đời 3 chìm 7 nổi, chứa đầy bão tố; khác hẳn số phận nhân vật phụ nữ trong tác phẩm của bà. (tác phẩm đã xuất bản: - HAI CHỊ EM, 1953 - THƯƠNG YÊU, 1955 – XÓM NGHÈO, 1958 - CÔ MAI, - NỔI SÓNG , v. v…)
Bài thơ Lượm trong tập thơ Việt Bắc được đưa vào Sách giáo khoa nhiều năm nay, đã rất quen thuộc với giáo viên và học sinh trường phổ thông. Văn bản bài thơ này in trong cuốn Thơ Tố Hữu – Nhà xuất bản giáo dục -1995 trang 240 được Tố Hữu ghi rõ là viết năm 1949. Trong hồi kí Nhớ lại một thời, ở cả hai lần in- Nxb Hội nhà văn – năm 2000 trang 260, NxbVHTT năm 2002 trang 200, Tố Hữu lại cho biết: ông viết bài thơ này vào năm 1952 khi dự Hội nghị Trung ương lần thứ 3 ngày 21 tháng 1 năm 1952 “ Chính trong Hội nghị Trung ương lần thứ 3 này một đồng chí ở Thừa Thiên ra kể cho tôi nghe về những tấm gương chiến đấu dũng cảm ở quê nhà và cho tôi biết tin về cháu Lượm”
Trong tư thế hành động của kẻ du ca, Đỗ Thành Đồng chuyển gam sắc của bản nhạc thơ cũ sang lãnh địa của thơ tự do. Lực thơ của anh ngày càng vững, chắc hơn. Điều này được minh chứng bằng tập thơ: “Rác”
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.