Những số báo giấy cuối cùng của Văn nghệ Trẻ đang được hoàn tất, xen lẫn tâm trạng bâng khuâng, nuối tiếc nhưng nhà văn Khuất Quang Thuỵ - Tổng Biên tập, vẫn “kỳ vọng xuất hiện một thế hệ mới, họ hoàn toàn tự tin khi công bố tác phẩm của mình trên mạng mà không hề có băn khoăn mình có là nhà văn mạng hay không” khi nói về Văn nghệ Trẻ điện tử tương lai.
Nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc sinh năm 1958 tại Sơn Tây (Hà Tây cũ), giã biệt thế gian năm 2001. Thời khắc ông bước sang đời sống khác, là lúc đang căng tràn sức sáng tạo, để lại bao dự định ngổn ngang cho những cuộc khởi hành kế tiếp. Bạn đọc khi ấy đang chờ đợi thơ Nguyễn Lương Ngọc hiển lộ thêm, độc sáng hơn, có người còn dự đoán ông sẽ “bẻ ghi” sau 3 tập thơ đã xuất bản: “Từ nước” (Nxb. Hội Nhà văn VN, 1991), “Ngày sinh lại” (Nxb. Thanh niên, 1991) và “Lời trong lời” (Nxb. Văn học, 1994). Nhưng hành trình thơ ấy đã dừng lại khi nhà thơ mới vào tuổi 43.
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng người đất Dục Tú, Đông Anh, Hà Nội. Người thân, bạn bè và những người yêu mến ông vẫn thường về nghĩa trang địa phương thắp hương cho ông. Ông đã yên nghỉ nơi đây từ hàng chục năm nay, và mới đây, bà Trịnh Thị Uyên, người bạn đời của ông cũng về yên nghỉ bên chồng sau khi sang cát. Hai ngôi mộ song song, theo kiểu “nam tả nữ hữu” nổi bật lên trong khu mộ gia đình. Không phải bởi sự quy mô, cũng không phải ở vẻ xa hoa, cách biệt, mà ngược lại, bởi chính vẻ hài hoà, tinh tế mà hai ngôi mộ bổ sung cho nhau. Ông trang nghiêm, bề thế; bà ấm cúng, khiêm nhường, nhưng không kém vẻ đàng hoàng, sang trọng.
Thực ra bài viết này tôi viết cách đây vài tháng sau khi đọc tập thơ Hoan ca, một tập thơ được giải thưởng của hội Nhà Văn Việt Nam năm 2012. Phần đầu tiên của bài viết này tôi đã định bỏ đi rồi vì rằng nó hơi tục và động chạm đến vô số người thành danh lẫn không thành danh. Nhưng! Hôm nay tình cờ tôi lại đọc được một bài phê bình văn chương của tác giả Yến Nhi với một cái tựa đề kêu như mõ “Mỹ cảm nghệ thuật mới trong thơ trẻ”. Bài viết này khiến tôi quyết định giữ nguyên phần đầu của bài viết của tôi.
Với cá nhân tôi, nhà thơ Anh Ngọc là một chỗ ân tình. Anh là một trong những người đầu tiên đã ghé mắt vào những bản dịch thơ từ tiếng Nga và chọn in trên tạp chí Văn nghệ Quân đội từ năm 1982. Bản dịch thơ đầu tiên đó là bài “Đàn sếu” của nhà thơ Dagestan Rasul Gamzatov, mà tôi đã chuyển ngữ từ bản dịch tiếng Nga.
“tôi không còn giống đồng loại quanh tôi đường trở lại ngày xưa giờ xa ngái có tiếng chim nào cho lá tôi mặc khải cuộc tình xanh huyền thoại… mấy thu rồi”
Trong sáng tác văn chương và nghiên cứu học thuật, một cụm từ khi được hiểu là một thuật ngữ hay một chuyên danh, nó phải đi vào một hệ thống nhất định.
Không phải đến hôm nay người ta mới gọi Trần Dần là “nhà cách tân”. Từ năm 1946 khi tham gia nhóm Dạ Đài, Trần Dần đã cùng với Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Vũ Hoàng Địch… soạn ra bản “tuyên ngôn tượng trưng” nhằm cách tân thơ Việt sau rất nhiều thành công của Thơ Mới (trước năm 1945).
Dép lê, sơ mi đơn giản bỏ ngoài quần, người to ngang thấp đậm, nách cắp chai rượu, giọng ồm ồm, hơi khàn. Ông sẵn sàng vỗ vai người này, cụng ly với người khác, nói chuyện với ai ông cũng gọi mày, xưng tao khá bỗ bã, thân tình, không một chút quan cách hay cố tỏ ra "tao nhã" đúng kiểu văn nghệ sĩ. Được xem như một cây đại thụ trong làng văn chương, nhưng bề ngoài, cho đến lúc tạ thế, nhà văn Nguyễn Quang Sáng vẫn đặc sệt cốt cách một lão nông tri điền vùng sông nước Nam Bộ.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.