Có người nói với tôi rằng: “Các anh phải chịu trách nhiệm với chất lượng thơ hôm nay, vì cứ khen thơ văng mạng, để cả một nền thơ nát bét, ai ai cũng đổ xô đi làm thơ!” Tôi không khen văng mạng. Có khen có chê. Nhưng phải nhận lời phê ấy là có lý. Là vì tình thế xã hội, bây giờ người ta không muốn mất lòng ai. Phê bình văn chương mà như viết điếu văn, chỉ thấy khen. Nhà phê bình viết không vì độc giả mà lại vì tác giả. Lẽ ra viết phê bình là để đối thoại với người đọc chứ, và phải lùi xa tác giả ra… Hoặc nhìn nhận, đánh giá một số tác giả trong các giai đoạn quá khứ, là đặt ai về vị trí đó, chứ không phải dàn hàng ngang để “phục hồi” như nhau. Đang có một sự hỗn loạn đáng báo động trong việc xác lập các tiêu chí văn chương. Người viết cần phải bình tĩnh lại. Không thể khen chê dễ dãi. Một việc không dễ nhưng phải làm.
Một trùng hợp: Kỷ niệm 70 năm xuất bản cuốn sách nổi tiếng “Thi nhân Việt Nam” đúng lúc với dịp kỷ niệm 100 năm sinh nhà thơ Nguyễn Vỹ - một trong 46 nhân vật của Hoài Thanh trong cuốn sách nói trên.
Lời tác giả: “Văn chương có khả năng tạo ra mộng thật đẹp. Nó có sức mạnh đánh lừa được ngay chính bản thân tác giả và đánh lừa được cả người đọc nữa!”
Thiện nói với Nh. Tay Ngàn :” tao vốn là một thằng kiêu ngạo và tao chẳng từng nói với mày rằng tao có thể làm bất cứ những gì mà con người đã có thể hay sẽ có thể làm được trên đời này? Shakespeare hay Goethe, Dante hay Heidegger, tao coi như những thằng hề ngu xuẩn. Tao có thể nói như thế được, vì ngày xưa tao đã từng tôn thờ những tên ấy như là những gì bất khả xâm phạm trên đời này. Ngay đến Héraclite, Parménide và Empédocle, bây giờ tao cũng xem thường, xem nhẹ; tao coi ba tên ấy như là ba tên thủ phạm của nền văn minh hiện nay; chưa nói đến Socrate, đó là một tên ngu dại nhất mà tao đã gặp trong đời sống tâm linh của tao.
Trịnh Công Sơn - Bob Dylan, như trăng và nguyệt? Cái tựa sách thật éo le, vừa ỡm ờ vừa nghiêm chuẩn - "...như trăng và nguyệt?", lẩy theo lời Nguyệt ca của họ Trịnh (từ khi trăng là nguyệt/ từ trăng thôi là nguyệt...), mà điểm nhấn chính là dấu hỏi đầy ý tứ treo như một cái móc câu.
Đọc bài thơ viết về mẹ của Võ Văn Trực, tôi không khỏi liên hệ tới bài thơ "Bên mồ mẹ" - cũng về đề tài trên của nhà thơ Tế Hanh. Bài thơ ngôn ngữ thật giản dị. Tác giả chỉ một đôi nét phác họa mà sao sức gợi của nó thật lớn. Bài thơ này ra đời sau bài thơ của Võ Văn Trực 3 năm. Cũng tâm trạng bơ vơ, côi cút của một người con mất mẹ, nhưng cách kết bài của Tế Hanh thì lại thật giàu sức khái quát: "Cúi đầu từ biệt mẹ/ Từ biệt cả làng quê/ Quê mẹ không còn mẹ/ Bao giờ con lại về?". Chỉ mấy lời giản dị vậy thôi mà như khía vào trái tim người đọc, có sức lay động mạnh. Không chỉ vậy, nó còn nâng bài thơ lên một tầm cao khái quát. Bài thơ vì thế đã vượt ra khuôn khổ bài thơ của một người con viết riêng cho mẹ của mình...
Giá như tôi có dịp gặp và nói với anh linh của Emily Dickinson, tôi chắc rằng bà sẽ hài lòng được biết về thơ ca Việt Nam mà tôi thật may mắn đã được đọc và nghiên cứu. Dẫu hiểu biết của tôi về truyền thống và thơ ca ấy hạn chế, tôi sẽ bắt đầu bằng việc giới thiệu với bà về Nguyễn Trãi. Tôi muốn nói với bà về một bài thơ rất nổi tiếng mà tôi và Nguyễn Bá Chung bạn tôi đã cùng dịch sang tiếng Anh vài năm trước.
Đó là thế hệ dò tìm, phác họa chân dung, gương mặt của chính mình sau chiến tranh. Nói cách khác, giả sử cha anh chúng tôi đã sinh trưởng vào thời điểm như chúng tôi, thế hệ của e-mail, chat, internet…, khi thông tin đang mở rộng và thu hẹp lại thế giới, thì chắc họ cũng phải trăn trở, cũng phải thể nghiệm như chúng tôi.. Dò tìm gương mặt mới của thế hệ “
Nhà phê bình Đỗ Ngọc Yên đánh giá: “Dương Kiều Minh được ghi nhận như một trong những nhà thơ có nhiều đóng góp trong quá trình cách tân thơ Việt từ cuối những năm 80, đầu những năm 90 thế kỷ trước. Các tác phẩm thơ của ông gồm: “Củi lửa”, “Dâng mẹ”, “Những thời đại thanh xuân”, “Tựa cửa”, đã in trong “Thơ Dương Kiều Minh”, “Tôi ngắm mãi những ngày thu tận”, “Khúc chuyển mùa” đã in trong “Thơ Dương Kiều Minh”. Đây là cuốn sách tập hợp đầy đủ nhất các tác phẩm thơ của ông từ trước đến nay. Có lẽ Dương Kiều Minh là một trong những người hiếm hoi thuộc thế hệ các nhà thơ hậu đánh Mỹ đã dành trọn cả cuộc đời mình cho sáng tạo thi ca, đặc biệt là quá trình đổi mới thi pháp thơ. Còn những công việc khác đối với ông chẳng qua chỉ là “áng mây sà buổi mai”. Điều quan trọng là, dường như đã biết trước được mệnh Trời, nên ông đã lĩnh trọn “trách nhiệm” cao cả ấy với một tinh thần tự giác cao và thỏa nguyện, để rồi ứng xử với nó một cách hết sức tự nhiên, nghiêm túc và có văn”
Mẹ ơi, chỉ sau vài phút tâm sự với mẹ mà con đã vững tâm để đưa ra quyết định rồi: ĐI ! Nói đến đây, con lại nhớ đến một câu thơ mà cũng ở trong nhật ký của me: “Người ra đi đầu không ngoảnh lại / Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy…” Mẹ ơi, tại sao Người Hà Nội nào khi phải ra đi cũng nghĩ đến câu thơ ấy? Mà sao từ ngày mẹ có người yêu mới, mẹ hay thơ với thẩn thế? Mà lại yêu một nhà thơ nữa cơ chứ, may mà nhà thơ này lại giàu cỡ tỉ phú không thì mẹ chết đói mất!...
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.