Vậy thì điều kiện đầu tiên để có thơ tự do là chủ thể làm thơ phải tự do. Thế nhưng, chủ thể làm thơ vận luật lại không tự do sao? Có nhà thơ đích thực nào lại không tìm được sự tự do trong tâm hồn khi làm thơ? “Thân thể tại ngục trung – Tinh thần tại ngục ngoại” (Hồ Chí Minh) cơ mà!
Lưu Quang Vũ không chỉ nổi tiếng là nhà viết kịch tài năng mà còn là thi sĩ có những bài thơ được bạn đọc nhớ lâu như "Vườn trong phố", "Tiếng Việt"… Tôi đọc bài "Tiếng Việt" đã lâu, nay vẫn thích bởi thi phẩm có tính khái quát cao, độ xúc cảm sâu và lấp lánh nhiều thi ảnh.
Nếu như hình tượng ma trong văn học dân gian nặng về tính hiện thực hơn tính nghệ thuật, thì trong văn học viết, tính nghệ thuật hoàn toàn lấn át tính hiện thực. Mấu chốt của văn học kì ảo (văn học viết) là cái kĩ thuật khiến con người ta hồ nghi, giữa lí trí duy vật và nỗi sợ hãi duy tâm, giữa duy lí và duy cảm.
Việc tìm đến thơ không hề lạ đối với các cây bút viết phê bình. Mà thực tế đã chứng minh qua các cây bút, như: Trương Đăng Dung, Hồ Thế Hà, Mai Bá Ấn... Tôi tìm đến thơ để được sống cho chính mình và giải tỏa những áp lực trong cuộc sống mà địa hạt lý luận phê bình không thể gánh nổi.
Sự cô đơn của Lê Lựu không bao giờ là một sự cô đơn thuần tuý về gia đình, bè bạn, về cơ quan đoàn thể, hiệp hội nghề nghiệp, về quá khứ hay là về tương lai. Cô đơn của ông là sự cô đơn tiền kiếp, chung đúc, bản năng, lạc loài, đơn kép, là một sự cô đơn bản thể, sự cô đơn vĩnh viễn của con người.
Chỉ có “Trường thơ Loạn” và nhóm “Xuân thu nhã tập” trước năm 1945 là hai thi phái hiện đại duy nhất ở Việt Nam có những quan tâm thật sự về tâm linh trong thơ, tâm linh theo nghĩa là một thứ “linh khí” của sáng tạo. Tâm linh trong thơ ca của người Việt vẫn còn là mảnh đất tiếp tục mới.
Lê Thanh Phách sinh năm 1964. Lúc nhỏ, quê hương bị chiến tranh tàn phá, phải tản cư sống cách quê gần 20 cây số, theo học tại trường Cây Da ở Điện An. Lớn lên, Lê Thanh Phách có một tâm hồn nhạy cảm,
Là nhà văn tiền chiến được đánh giá có tác phẩm trinh thám nhỉnh hơn Thế Lữ, Bùi Huy Phồn, nhưng ít người biết Phạm Cao Củng còn công tác cho công an VNDCCH và có tài thôi miên.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.