“Màu tím hoa sim” là một trong những bài thơ tình thuộc loại hay nhưng có âm hưởng buồn nhất trong nền thi ca nước nhà, đến mức nhà văn Vũ Bằng đã phải thốt lên: “Cơn sầu của nhà thơ Hữu Loan được coi là tha thiết không kém cái sầu của Đường Minh Hoàng sau cái chết của Dương Quý Phi, một cái sầu “mang mang vô tuyệt kỳ”. Theo nhà thơ Hữu Loan thì đây là bài thơ ông khóc người vợ xấu số của mình là Lê Đỗ Thị Ninh. Vậy Lê Đỗ Thị Ninh là ai?
Chuyển động thơ Việt Nam… của Anh Chi khá dài, gồm 9 phần, viết từ cuối năm 2012. Nay Anh Chi gửi nguyentrongtao.info 4 phần, đã in 4 kỳ trên báo Nhân Dân cuối tuần từ số 13 đến số 16/ 2013. Và, gửi Nguyễn Trọng Tạo nguyên bản bài Đôi điều trao đổi… với Inrasara. Lúc nào in tập Lý luận phê bình có cần cho đời sống không?, Anh Chi sẽ in bản này”. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn.
Thơ ngắn của Nguyễn Anh Nông có hình thức khá giống với haiku của Nhật. Đặc trưng của thể thơ này là thiên về biểu tứ. Bài thơ là hình hài cô đọng nhất gói trọn một tứ thơ. Sự tinh giản đến mức tối đa về chữ đặt ra yêu cầu phải có tứ thơ thật sáng, thật chụm.
Nhà văn Võ Thị Xuân Hà: Tôi đã từng rơi vào tình cảnh túng quẫn, từng âm thầm rơi lệ mà viết bài thơ cho riêng mình Mười lăm ngày nữa mới hết tháng – Còn 15 ngày nữa, mà trong túi chỉ còn vài đồng bạc mỏng manh, với bao nhiêu việc phải cần đến tiền. Nhưng tôi vẫn gắng gỏi “Riết róng thân mình giữ trọn đạo nhân gian”, vẫn kiêu hãnh nhìn ra “Cái ác quanh ta mặc bộ com-le/ Một sớm mai vù xe qua trước cửa/ Lặng lẽ ta ban nụ cười cháy đỏ/ Gã lùi xa rồi… ”.
Sau một thời gian dài bị phủ lấp dưới những định kiến, đến hôm nay, cái tên Nguyễn Văn Vĩnh đã bước ra ánh sáng với tư cách một học giả, nhà văn hoá lớn, có công hoàn thiện và phổ cập chữ quốc ngữ, đồng thời, thuộc thế hệ khai sinh văn học dịch và báo chí Việt Nam.
Xu hướng “Phản tiếp nhận” mới xuất hiện trong các diễn ngôn lý luận văn chương nước ta khoảng trên hai chục năm nay. Cũng có thể nói là đồng hành cùng với quá trình Đổi mới. Trước đây, nó hầu như chưa được định danh mà chỉ mang theo một ý nghĩa để chỉ sự ngộ nhận, ở đây là “ngộ nhận” ý đồ của nhà văn. Nghĩa văn chương trong trường hợp như thế không được thừa nhận là đứng đắn và đúng đắn.
Thầy Ngô Văn Giảng vừa tạ thế tại Úc, hưởng thọ 89 tuổi. Tin buồn loan ra, tôi bâng khuâng nhớ về 54 năm trước, năm 1959, thầy là giáo sư âm nhạc của chúng tôi tại trường Hàm Nghi, Huế. Thuở ấy, thầy mới ngoài 30, dáng điệu phương cường, đi chiếc xe gắn máy hiệu Zunndapp của Đức nổ bịch bịch nổi bật cả sân trường.
Cái làm nên tài năng của Vũ Quần Phương chính là chất suy tưởng và những tình cảm nồng thắm, bình dị được thể hiện trong những bài thơ trau chuốt về ngôn từ, hài hòa về âm điệu và hình ảnh được gạn lọc nhiều khi hóa thành biểu tượng. Thơ ông lúc trẻ đã lắng đằm, heo hút, về sau càng mênh mang, thăm thẳm và giàu triết luận.
Đây là bài thơ mà nhà thơ Trúc Thông khóc mẹ. Mới đọc ngỡ như anh đang đứng trước hương hồn người mẹ của mình đã khuất nơi chín suối, để trào ra những dòng thơ thương cảm.
Di chuyển từ vùng New York và New Jersey, sau non sáu năm (1999-2004) sống ở khu Sài Gòn Nhỏ, Ca Li, tôi được dịp đọc khá nhiều sách báo Việt ngữ và tôi buồn lòng nhận thấy một số người viết, ngay cả thần tượng quá cố hay nhà văn có tiếng trong hiện đại , vì quên, thờ ơ, không nắm vững hoặc bất chấp (tức coi thường độc giả; bắt người đọc phải chấp nhận những gì mình viết!) đã không áp dụng luật hay nguyên tắc chấm câu như trước 1975.Và kể từ cuối năm 2004, có dịp về Sài Gòn nhiều lần, tôi càng thất vọng hơn.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.