"Dù sao đây cũng là 100 bức tranh nhỏ về những người có công trong văn học, những người nổi tiếng trong làng văn, trong bạn đọc, bằng chính những tác phẩm có giá trị của mình. Bạn đọc và thời gian đã là người đánh giá chính thức và công bằng nhất đối với họ. Rất mong độc giả và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết. “
Ngay nhà thơ nổi tiếng như Xuân Diệu cũng được khẳng định là nhờ thi ca Pháp. Ảnh hưởng này đến Xuân Diệu “cực điểm”[(4; tr.31)]. Dĩ nhiên, ảnh hưởng của thơ Pháp cũng như thơ ca phương Tây là một điều hiển nhiên. Nhưng từ đó mà đi nghi ngờ các nền văn học khác thì không nên. Thơ ca Trung Quốc đã đưa đến ảnh hưởng không nhỏ.
Trong số các nhà khảo cứu biên soạn Kiều có Tản Đà nhà Nho và nhà thơ. Vào cuối đời, Tản Đà đã biên khảo một quyển Kiều góp thêm một bản văn Kiều vào danh mục các công trình biên khảo Kiều soạn bằng chữ Quốc ngữ.
Nguyễn Ngọc Tư nổi tiếng về những truyện ngắn khá hay viết theo lối truyền thống. Chị thường kể lại những nỗi u hoài trầm lặng, sự nhẫn nại chịu đựng cam phận trong tâm hồn người dân quê miền Nam, mà đời sống gắn bó với con kinh, con rạch. Giọng văn và tinh thần sông nước của chị như một truyền thống nối dài từ Bình Nguyên Lộc, người đã gắn liền hai yếu tố đất và nước, thành ý nghiã thiêng liêng của hai chữ đất nước.
Qua nhiều thông tin, tôi được biết nhà phê bình văn học Hoài Chân có một người con gái cũng là nhà thơ đang phải sống trong một trại tế bần tại Bắc Ninh... Bà tên là Nguyễn Phương Thúy, con gái thứ ba của nhà phê bình Hoài Chân.
Ở tuổi hai mươi, năm 1956, Thanh Tâm Tuyền cho in tác phẩm thơ đầu tiên của mình, có nhan đề như một tuyên ngôn: Tôi không còn cô độc. Có lẽ, cô độc là một đặc sản của cái tôi nguyên tử luận Thơ Mới. Một cái tôi đối diện, đúng hơn đối đầu, với thực tại. Cái tôi Thơ Mới này, sau khi đã lên tới thiên đỉnh, Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất, với Xuân Diệu, không chịu nổi cô độc, nên đã tìm về với các bọc trăm trứng của cộng đồng: một thời tiền sử hoà đồng, những thiên đường nhân tạo liên/xuyên cá nhân, để đến Một Chín Bốn Nhăm, thì hoà mình vào cái ta xã hội, cái ta dân tộc. Nhưng Tôi lại là sự chống lại chủ nghĩa tập thể núp danh cộng đồng, dân tộc, lại là sự đề cao cá nhân đích thực.Thanh Tâm Tuyền của Tôi không còn cô độc không còn là sự đối lập giữa tôi và thực tại, tôi đối đầu với thế giới, mà là sự lơ lửng giữa tôi và thực tại, tôi kiến tạo nên thực tại, tôi là thực tại.
“Con đường ông đi, không đúng như tên tập thơ của ông, tập “Tôi Không Còn Cô Độc” được xuất bản năm 1955, đã có nhiều người đi theo bằng những bài thơ không vần, loại thơ ông đi những bước đầu tiên khai phá, nhưng ông vẫn là người cô độc cho đến lúc chết”.
Trịnh Công Sơn từng có câu: Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em có biết không? Để gió cuốn đi… - “Để gió cuốn đi” hình như là một cái gì ám ảnh và đúng với nhiều thân phận cuộc đời con người mà Bùi Giáng là một trong đó.
Bạn đọc ngày nay đều biết bài thơ Huế tháng Tám nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu, bài thơ được in trong tập Từ ấy và cho đến nay đã có mặt ở hầu hết các tuyển tập thơ Tố Hữu, đã đi vào sách giáo khoa của nhà trường phổ thông.
25 năm vắng bóng, ở tuổi gần 60, Trương Đăng Dung xuất hiện trở lại trong tập thơ đầu tay chỉ với 25 bài nhưng ngay lập tức gây chú ý trong giới nghiên cứu văn học và được bạn đọc nồng nhiệt đón nhận.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.