Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Xuân Diệu đến với cuộc đời mới trong niềm vui chào đón, hồ hởi. Một chặng đường mới, những đóng góp mới tiêu biểu nhất trong những năm đầu Cách mạng tháng Tám là Ngọn quốc kỳ và Hội nghị non sông. Xuân Diệu gọi đó là những trường ca “viết bằng hồn”, khi tâm hồn gắn với đất nước và nhân dân, và đất nước đã bước sang trang sử mới. Tứ thơ, lời thơ toả sáng mà ấm áp với bao cảm xúc yêu thương, trân trọng, ngợi ca những biểu tượng về cuộc sống, con người của đất nước mới hồi sinh.
Cùng với nhà văn Tô Hoài, nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh là một trong hai vị lãnh đạo nhiệm kỳ đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam còn lại với chúng ta đến đầu thế kỷ XXI (tại Đại hội thành lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957, nhà văn Tô Hoài được bầu làm Tổng thư ký, nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh là Phó tổng thư ký).
Một 9X “lọ mọ” với từ ngữ Tiếng Việt từ những năm học lớp 11, để sau gần 10 năm đã phát triển thành một dự án bảo tồn và phát huy tiếng mẹ đẻ của dân tộc.
Tôi có may mắn, thời nhà thơ Tế Hanh còn khỏe, tuy mắt đã mờ, nhưng hồn ông vẫn trong sáng, ngây thơ như thuở còn trai, tôi chơi thân với ông như một người em cùng quê Quảng Ngãi. Chúng tôi cùng yêu thơ và có sự ngưỡng mộ đặc biệt với thơ hiện đại phương Tây, nhất là thơ Pháp.
Tiếng Việt còn rất khoa học và dễ tiếp thu. Tiếng Việt nói là nghe, đọc là hiểu, chứ không quá phức tạp để học như tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Nhật. Khi con gái tôi học những bài hát thiếu nhi, chỉ một buổi là cháu đã líu lo đúng lời. Có lẽ cháu cũng yêu tiếng Việt như tôi…
“Thơ Hoàng Hiếu Nhân là thế, rất sắc sảo và thông minh. Ngôn ngữ chắt lọc. Cấu tứ chặt chẽ. Đặt thơ anh bên cạnh thơ của bạn bè cùng trang lứa, và về cùng một đề tài, mới thấy anh có một tư duy vượt trội” (Trần Đăng Khoa).
Hồi 1954, gia đình tôi dọn về con ngõ nhỏ thuộc số nhà 111 Khâm Thiên. Tôi hay được cô Thảo bán bánh nếp đọc thơ Trần Huyền Trân (1913-1989). Cô kể ông Trân ở khu Cống Trắng từ cái đận các nhà hát cô đầu còn nỉ non suốt đêm cơ. Nghe mãi tôi cũng thuộc mấy câu: “Tôi ở lều gianh Cống Trắng này/ Chạnh lòng cá nhảy với chim bay/ Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức/ Giăng phải hồn tôi một lưới đầy” (Mưa đêm lầu vó-1938).
Cách đây 14 năm, ngày 13.8.2008, nhà văn Sơn Nam đã qua đời gây xúc động mạnh trong giới cầm bút và bạn đọc. Điều đó đủ nói lên tầm quan trọng của ông đối với đời sống văn chương và báo chí, nhất là ở Nam Bộ, nơi nhiều độc giả xem ông là nhà văn bậc thầy của vùng đất này…
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong phương ngữ Nam Bộ nói riêng và ngôn ngữ nói chung là một điều cần thiết trước sự xâm thực của ngôn ngữ ngoại lai trong thời hội nhập quốc tế…
Xuất hiện vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thơ Lưu Quang Vũ đã tạo ngay được ấn tượng mạnh trong bạn đọc. Việc nhà phê bình Hoài Thanh, người thẩm thơ và bình thơ có lẽ là xuất sắc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại, giới thiệu Lưu Quang Vũ với những lời biểu dương nhiệt liệt là một bằng cớ rất đáng tin cậy. Bây giờ đọc lại ta vẫn thấy những phân tích của ông thật chính xác và tinh tế.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.