Tôi vẫn đọc thấy đâu đấy năm 2010 là một năm thơ sôi động, nhiều gương mặt sáng giá… Chỗ khác thì năm 2010 là năm trầm lắng của thơ Việt. Hai kiểu nói nghịch nhĩ ấy, thực ra với thực trạng thơ Việt Nam gần đây, cụ thể là từ 2010 đến nay, thì nói kiểu nào cũng trúng.
Đã có nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu tìm cách lý giải sức chinh phục độc giả của Lê Văn Trương. Họ đều thừa nhận truyện của Lê Văn Trương không hẳn đã đặc sắc hơn một số tác giả khác, chưa nói không hiếm chỗ, nó còn thể hiện sự "ăn xổi ở thì". Một độc giả viết rằng, anh không biết những người khác tìm đến với Lê Văn Trương bằng cách nào, riêng anh thì đến với Lê Văn Trương bởi sức khêu gợi của những cái tên sách..
Không biết có ai trên đời này được nghe điếu văn của mình lúc còn sống như Hải Kỳ không ? Có lẽ hiếm lắm. Hải Kỳ biết hết tất cả những sự chuẩn bị của vợ, con và bạn bè cho giờ phút rời cõi tạm của mình và rất bình tĩnh, tự tại. Ừ thì mỗi người sống trên cõi đời này dù dài hay ngắn cũng chỉ để lại một cái mốc nào đó. Phùng Quán ra đi khi mới 64 tuổi, nhưng thơ văn, nhân cách của Phùng Quán sống mãi. Hải Kỳ cũng có một sự nghiệp thơ tài hoa, bám rễ trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ …
“Nam Phong có vai trò quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam, nó cũng đã gây một ảnh hưởng rất sâu xa trong giới trí thức Việt Nam trước kia”. Thế nhưng nhận định về mục đích ra đời, về tên gọi và việc đóng cửa của tạp chí văn học này, hiện vẫn có tình trạng mỗi người một phách, một phán đoán riêng, có chỗ suy diễn tùy tiện, thiếu căn cứ. Để góp một chút tư liệu cho các bạn đọc quan tâm, chúng tôi xin giới thiệu ý kiến của Huỳnh Văn Tòng, người đã từng bảo vệ luận án tiến sĩ về Lịch sử báo chí Việt Nam tại Đại học văn khoa và Khoa học nhân văn ở Paris (Sorbone) năm 1971.
Tôi có cảm tình ngay với cái tựa đề rất ấn tượng của truyện ngắn này, cho dù, cái tên Nguyễn Hương Duyên, với tôi, còn rất lạ lẫm. Và càng đọc, tôi càng bị chinh phục bởi một giọng văn rút ruột đến não nùng. Hơi văn vừa đẹp vừa buồn, vừa day dứt, nén sâu lại vừa dữ dội và u uẩn. Văn thì bay lên mà câu chuyện buồn lại trì níu câu chuyện trôi đi. Trôi và bị níu, đó là cảm giác của tôi khi đọc "Bến đợi nhọc nhằn" của Nguyễn Hương Duyên. Bạn thử đọc đọc văn này của Duyên xem: "Sau lần đánh mất sự trinh trắng của mình, lần thứ hai tôi cay đắng nhận ra niềm kiêu hãnh còn lại cuối cùng của tôi dành cho mẹ giờ không còn nơi bấu bíu. Đau đớn thay, tôi phải thừa nhận rằng, nhờ cái đêm rừng núi lạnh lẽo ù ù gió hú không đáng nhớ ấy tôi mới có thể hiểu cha và tha thứ cho mẹ" (TS Mai Bá Ấn)
Chúng tôi bắt đầu cuộc phỏng vấn với một thoả thuận nho nhỏ: sẽ chỉ nói chuyện về Linh - Đàn bà, còn nhà thơ Vi Thuỳ Linh - đừng "động" đến cô ấy! Nhưng khi vào chuyện, cuối cùng Linh vẫn vòng về thơ say sưa, như một phẩm tính mãnh liệt. Linh bảo, đó là tình yêu nhiều khổ luỵ và nồng nàn tuyệt đối của cô…
Mới đây, nhà thơ Nguyễn Duy còn làm chuyến du khảo văn hoá xuyên Việt cùng với kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn, nhà văn Nguyễn Trọng Tín và 3 phóng viên bằng ôtô trong gần một tháng. Chuyến đi này, theo ông, nhằm mục đích tiếp xúc, khảo sát, tìm hiểu về văn hóa, ẩm thực, lễ hội khắp ba miền đất nước. Ông khoe với bạn bè: “Tôi đã nhiều lần đi từ Bắc vào Nam, cả đường bộ và đường không. Thế nhưng, làm tài xế lái ôtô xuyên Việt thì là lần đầu. Không thể tả được cái thú là muốn dừng lại ở đâu, muốn ghé chỗ nào tùy thích. Quá nhiều ấn tượng”. Với ông, đó là chuyến du khảo đầy ý nghĩa. Văn hóa, ẩm thực của đất nước ta thật phong phú, kỳ lạ. Ông cho biết: “Tôi nghĩ, ẩm thực của dân tộc mình xứng đáng được đề xuất công nhận di sản văn hóa, nhưng không biết là xếp vào loại nào: vật thể hay phi vật thể, bởi vì cái ăn không chỉ thể hiện qua vật chất cụ thể mà còn thể hiện cái phong cách, cái nết của con người. Nếu không bảo tồn văn hóa ẩm thực thì với tác động của thời cuộc, văn hóa ẩm thực sẽ bị mai một dần bản sắc. Mục đích của chuyến đi là khi trở về sẽ ra cuốn sách biên khảo về văn hóa, ẩm thực 3 miền. Cái đó, chúng tôi đang xúc tiến hoàn thành”.
Vợ chồng Thanh Tùng đặc biệt hay cãi nhau về …thơ trong bữa ăn.Tôi luôn phải làm nhiệm vụ hòa giải mỗi khi gặp nghịch cảnh đó. Chị Nhàn luôn phản ứng với thơ bỏ vần của chồng. Ngay cả khi anh được giải thưởng chính thức Văn học công nhân của Tổng Công đoàn đến hai lần. Chị bảo nếu thơ có vần, chắc được giải cao hơn (!) Người phụ nữ này đã từng làm Thanh Tùng dịu đi những gì thô tháp, làm trong lại những gì bụi bậm trong anh, nhưng chính chị đã cho anh biết những đau khổ lớn của kiếp người: yêu đến man dại và ghen đến điên cuồng. Khi hai người chưa chia tay nhau, lòng ghen ấy hướng về quá khứ. Lúc tình yêu thăng hoa nhất, vẫn len lỏi một bóng mờ dĩ vãng của mối tình đầu “Trong câu thơ của em/ anh không có mặt”… Họ đã qua mối tình đầu dại khờ thời trẻ, nhưng mối tình đó ai ngờ lại là bất tử…Trong trạng thái ấy, bài thơ Thời hoa đỏ ra đời. Mỗi người trong cuộc tình đều bị cánh hoa mang lửa này đặt một “vết xước vào trái tim”, vết thương tinh tế mà sắc lẻm, nỗi đau không trào máu mà rỉ máu…
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.