Bây giờ, tôi mới tự hiểu, vì sao cũng trải qua chiến tranh, cũng ở chiến trường 5 năm như nhiều người khác, mà tôi tuyệt đối không nhận được bất cứ một sự khen thưởng nào, dù đó là huân chương, huy chương, thậm chí bằng khen. Bây giờ, tôi mới hiểu, thì ra, mình chỉ là kẻ lang thang qua chiến tranh.
Tuy nhiên, sau sự xuất hiện khá ào ạt chỉ khoảng 10 năm, tho Tân hình thức đã chững lại. Nếu không nhanh chóng đổi mới, dòng thơ này có nguy cơ không tránh khỏi bế tắc. Một là, người sáng tạo ra nó ngoài chất “thiên bẩm” nghệ sĩ còn phải có sự học thực sự mới có thể làm được những bài thơ kiểu này. Hai là, số đông độc giả người Việt vốn rất ưa cái gọi lànhịpvàvầntrong thơ, mà dòng thơ này lại có xu hướng thoát ly khỏi nó.
Đã từ lâu tôi vẫn nghĩ và tin rằng: quê hương của nghệ thuật là Tự Do, và nghệ thuật đích thực phải thoát thai từ những con người sáng tạo có đầy đủ quyền làm người, cùng tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội của họ; và lớn hơn nữa là đối với con người.
Đỉnh doạ viết về tôi đã lâu, nhưng tôi nghĩ sống gần nhau quá, hiểu nhau quá lại thường khó viết; và lại nghĩ, chắc hắn cũng chả viết về tôi làm gì. Nay bỗng dưng hắn meo cho bài viết và bảo “thích thì thích không thích thì thôi”. Vậy tức là hắn thích thì hắn mới gửi. Tôi đọc cái giọng bơn bỡn của hắn, thấy hắn vẫn là một văn tài. Cứ tẩm ngẩm thế, mà hắn tẩn hết tiểu thuyết này đến truyện ngắn khác. Giải vồ cả đống. Viết về bạn văn cũng nhiều. Bạn nào cũng rưng rức dưới mắt hắn, con mắt ngầu ngầu dại dại khi hớp phải rượu ngon. Thì cứ đăng lên cho hắn bõ công mài bút…
Ma Văn Kháng là một người suốt đời làm cán bộ, tất nhiên. Nhưng ông là cán bộ viết văn. Ông làm cán bộ liên tục từ khi viết văn và ông viết văn liên tục không ngừng nghỉ trong khi làm cán bộ. Có lẽ không ngày nào ông không đọc, không viết và không tham gia công tác. Cũng có lẽ chỉ ở ta mới sinh ra loại nhà văn đặc biệt, đặc thù như vậy.
Nhà thơ Thạch Quỳ tên thật là Vương Đình Huấn, sinh năm 1941 tại thôn Đông Bích, tổng Thuần Trung, huyện Lương Sơn, tỉnh Nghệ An, nay là thôn Đông Bích, xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.. Năm 1960, ông học ngành Sư phạm Toán tại trường Đại học Vinh, cùng năm này, ông có bài thơ đầu tiên được đăng trên Văn nghệ quân đội có tựa “Mà thương cũng nhiều. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông có một thời gian làm giáo viên Toán cấp 3 tại Nghệ An, sau đó công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật Nghệ An, ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Hiện ông sống ở thành phố Vinh, Nghệ An.
Trong buổi lễ mừng thọ thất tuần, Sigmun Freud đã từng phát biểu: “Trước tôi, các thi sĩ và triết gia đã sớm phát hiện ra vô thức, còn tôi chẳng qua cũng chỉ khám phá ra những phương pháp khoa học để nghiên cứu vô thức mà thôi”.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.