Ngày 24 tháng 9 năm 2007, tờ An Ninh Thế Giới cuối tháng (số 74) phát hành buổi sáng có bài “Họa sĩ Chu Hoạch một thân, phận như tôi biết” của Nguyễn Viết Bình, thì buổi chiều Chu Hoạch bị ngã tại nhà trọ và đến đêm thì rơi vào hôn mê sâu. Nhà thơ – họa sĩ Chu Hoạch đã không tỉnh lại nữa cho tới 10 ngày sau (24/8 âm lịch) thì anh mất ở Bệnh viện quân đội 354. Nhân ngày giỗ nhà thơ – họa sĩ Chu Hoạch, lethieunhon.com xin giới thiệu lại bài báo run rủi như một điếu văn ngày ấy, và bốn bài thơ của Chu Hoạch do nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc ghi lại theo trí nhớ, để công chúng hiếu thêm một con người tài hoa lận đận “tôi công nhận, em hoàn toàn có lý. Thơ chửa bao giờ có thể nuôi ai. Xưa đã thế và nay vẫn thế. Cơm mới cần cho hai bữa mỗi ngày"
Sự xuất hiện của thơ trẻ ĐBSCL trong những năm gần đây đã phần nào thể hiện sinh động, rõ nét những nét đẹp văn hóa, tinh thần đặc sắc ấy và đã hòa vào dòng chung của văn học trẻ cả nước như một dòng chảy lặng lẽ, lấp lánh vẻ riêng và ăm ắp phù sa…
Viết tiểu luận phê bình, sáng tác truyện ngắn, hôm nay, tôi lại gặp một Đỗ Ngọc Thạch thơ. Thơ anh chứa triết lý bề sâu, đậm chất nhân sinh nhưng vẫn dồi dào cảm xúc "giữa Sài Gòn ồn ào cuồng nhiệt/ vài bức tranh Phái Phố nhỏ nhoi/ cũng đủ để những người tha hương ôm nhau thân thiết/ khi cùng nhận ra nhau: Người Hà Nội đây rồi!". Bichkhe.org xin giới thiệu 1 chùm thơ về Hà Nội của Đỗ Ngọc Thạch cùng bạn đọc trong và ngoài nước (TS Mai Bá Ấn).
Ở Miền Trung, sau 1975, phê bình hoàn toàn thiếu hụt so với hai đầu đất nước. Đa phần các nhà thơ, nhà văn vừa sáng tác vừa phê bình như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đông Trình, Thanh Thảo, Hoàng Vũ Thuật, Mai Văn Hoan, Nguyễn Trọng Tạo, Thạch Quỳ, Hồng Nhu, Nguyễn Khắc Phê… . Về sau, miền Trung mới có những người chuyên sâu về phê bình như Lê Quý Kỳ, Hà Quảng, Hồ Thế Hà, Phạm Phú Phong, Mai Bá Ấn, Trần Hoài Anh,… Đến thế hệ 7x, đáng chú ý có nhà phê bình trẻ, TS. Trần Huyền Sâm.
Giọng Nu bỗng lạc đi. Hình ảnh buồn đau quá vãng dội về, dựng nguyên hình: những vùng đất phọt lên, tan tành, tơi tả, mù mịt giữa bụi máu ngòm ngòm… Hình ảnh dễ thương hơn: ba Nu cắm phập những nhát cuốc chắc nịch xuống lớp cỏ xanh rì. Rồi cúi nhặt mảnh đạn tung vào cái giỏ mang sau lưng, không cần nhìn ngó. Một trăm cái mảnh, Nu chưa hề thấy mảnh nào ba tung chệch khỏi miệng giỏ. Ba Nu từng chạy băng băng dưới làn bom đạn năm Bảy hai giữa mùa hè đỏ lửa. Một trăm quả bom đuổi theo ba Nu đều không kịp. Nhưng nó sẽ phục thù. Nó giả câm nằm trong đất chờ tới ngày được thét lên giữa trời đất bao la để trút bỏ mọi nỗi ấm ức cùng sự hận thù mà chủ nhân của nó đã gắn vào như một nghiệp chướng khôi hài...
Tôi có đứa cháu gái là giáo viên văn của một trường chuyên. Cháu ao ước có một bản dịch Chinh phụ ngâm mà không phải chú thích những phần không thuộc điển tích như mấy từ Hán Việt kể trên. Hãy đợi đấy! Tôi đã hứa với cháu, và đây là bản dịch của tôi theo thể thơ lục bát. Có thể bản dịch của tôi còn nhiều hạn chế, nhưng tôi tin khá sát nghĩa với nguyên bản và chắc rằng cũng dễ hiểu hơn trong nhiều trường hợp.
Lời thưa trước: Chiều hôm qua, 12-9 HB11, tôi rất vui khi được gặp lại hai người bạn cũ, Phùng Văn Hoàng và Đoàn Văn Tri, vốn cùng nhau học lớp 12C Trường Trung học Phan Châu Trình, Đà Nẵng, niên khoá 1973-1974. Giữa cuộc chuyện trò tại quán cà phê gần nhà, Hoàng có nhắc đến một bài viết của tôi và các tác phẩm của bạn bè trong giai phẩm Tết Nguyên đán năm ấy. Giai phẩm đó đã được Đoàn Văn Tri lưu giữ bản gốc. Đoàn Văn Tri lại tặng cho Phạm Hồng Thắng, và Thắng đã sao chụp để tặng lại Hoàng. Thế là cả ba đều đi về nhà Hoàng để xem lại ấn phẩm ronéo đầy kỉ niệm với nhiều chữ kí lưu bút. Mặc dù đã được sao chụp lại (photocopy), nhưng may thay, vẫn còn rất rõ nét.
Chuyện vốn rất đơn giản. Thơ và hoạ cũng là nghệ thuật, mà đã nghệ thuật thì đều là ý tượng hoá tình thú hoặc tình thú hoá ý tượng. Chỉ mỗi tình thú không thành thơ, chỉ mỗi ý tượng cũng không thành hoạ. Tình thú cùng với ý tượng dung hợp ăn ý nhau – thơ từ đó mà ra, họa cũng từ đó mà ra.
Nhà văn Ngô Khắc Tài, một tác giả truyện ngắn nổi danh của đồng bằng sông Cửu Long, suy ngẫm: "Hồi còn nhỏ, những buổi trưa hè gió luồn từ vườn sau ra cổng trước, các bà mẹ quê hay để tóc xoả tóc dài cho mát nằm đu đưa trên võng hát ru con, những bài ca dao ngộ nghỉnh nghe buồn mê. Vì còn nhỏ tôi nghe không hiểu sâu sắc lắm ý tứ kín đáo của các bài ca dao ấy nhất là bài ca dao con cò ăn đêm. Không hiểu nhưng qua con cò ăn đêm tôi vẫn mường tượng ra một cái gì đó. Nó vẫn còn đó nhưng nó theo ẩn hiện như ít nhìn thấy, đôi khi không biết tìm nó ở đâu. Tôi mường tượng nó là gì theo thời gian cho tới lúc bắt đầu bước vào tuổi cứng cạy trước khi bước vào tuổi già dễ mềm lòng, gần đây dõi theo báo chí những vụ án kinh tế, cho đến các vụ án nông trường sông Hậu diễn ra mà can phạm là cô Ba Sương – Trần Ngọc Sương. Từ trong ký ức xa, tự nhiên bài ca dao con cò ăn đêm vựt hiện ra, để rồi tôi hiểu điều mình mường tượng, có phải đó là lương tâm của con người, của xã hội..."
Tuy nhiên, trong cái rủi có cái may, sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại đã mang đến một hình thái mới cho sự phổ biến văn chương mà không cần thông qua kiểu in ấn cổ điển- đó là những trang văn học mạng, mạng xã hội, trang blog cá nhân…
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.