Trên báo Tiền Phong Chủ nhật số ra ngày 7.7.2024, trong bài về nhà thơ Hoàng Cát, tôi có viết “Cái năm 1974 ấy, làng Văn sao lắm việc chẳng lành. Văn có “Cây táo ông Lành”, thơ có “Vòng trắng” của Phạm Tiến Duật, “Sẹo đất” của Ngô Văn Phú. Như một dạng “Cố sự tân biên – Chuyện cũ viết lại” người viết xin đề cập đến chuyện năm xa ấy!
Đơn giản, điên là mất tất cả những gì thuộc về người tỉnh táo bình thường, nhưng được một cái gì riêng họ mà ta không biết, vì ta chưa kịp điên, lỡ điên cũng chẳng chịu nhận mình điên, như thằng say có bao giờ chịu nhận mình say… cho nên đố mà ai hiểu được cái gọi là bí nhiệm ở những kẻ thơ điên, thơ say… mãi tôn vinh cái Đẹp, chạy theo cái kỳ mỹ giữa đời.
Những lời nhắc nhở, răn dạy của Tổng Bí thư như còn đang vang vọng ở đâu đây, mà bác đã đi xa lắm rồi. Những thế hệ văn nghệ sỹ Việt Nam nguyện khắc ghi lời Bác, noi gương Bác. Riêng tôi, trên Huân chương Lao động hạng Nhì của mình có chữ kí tươi, mực xanh của Bác sẽ là một kỉ niệm quí giá, niềm vinh dự còn mãi.
Thầy tôi, khi dạy chữ thánh hiền, thầy đã truyền cho học trò mình “động lực nội tâm” ấy. Thầy đi xa, nhưng thầy đã có bao đệ tử chân truyền, chịu ảnh hưởng nhân cách và trí tuệ của thầy. Đó là niềm vui, là hạnh phúc truyền đời của thầy tôi!
Tất nhiên, ông khoác được tấm cẩm bào ấy trong nhiều năm mà không bị rơi thì ngoài cái cốt của thơ ông ra mà chúng ta nhìn thấy, thơ ông tất phải có những cái chống mờ khác độn giữa cốt và áo như đã nói ở trên. Vấn đề là những cái chống mờ ấy có giữ mãi được tấm áo ông hiện khoác không? Không ai có thể khẳng định. Bởi vì trong lịch sử văn học nghệ thuật, có những tác phẩm tưởng chừng kiên cố và vững chắc thì lại không trụ được với thời gian, thế mà có tác phẩm mỏng manh chông chênh thì gió bão lại không làm gì được, bởi đó là cái mỏng manh của một chất đặc biệt, có cấu trúc đặc biệt. Không biết thơ Hoàng Cầm có thuộc loại đó không?
Có thể nói rằng, thơ ca lãng mạn 1930 - 1945 có rất nhiều nỗi buồn cá nhân, cô đơn, tuyệt vọng, lánh đời... nhưng chàng học trò trẻ tuổi Tế Hanh lại thổ lộ nỗi buồn của lòng mình theo một cách khác. Càng đọc thi phẩm, tôi càng ngộ ra rằng, nỗi buồn trong “Những ngày nghỉ học” của Tế Hanh là một “nỗi buồn lớn” không đơn thuần là nỗi buồn riêng phổ biến trong thơ ca của một thế hệ thơ thời ấy...
Nói khác đi, mặc dù tiếp nhận và tiếp biến nhiều trào lưu tư tưởng nghệ thuật hiện đại nhưng Nguyễn Quang Thiều chưa bao giờ đứt rễ với truyền thống. Nơi ấy có một dòng sông vĩnh cửu, có ông bà tổ tiên, bè bạn, có những cánh đồng, những khu vườn chứa đầy bí mật.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.