Người lãnh đạo cách mạng tưởng không gì chán hơn là lại được đọc những tác phẩm văn thơ đúng như trong đường lối mình vạch ra, tư tưởng của tác phẩm chỉ ở trong cái phạm vi tư tưởng mà mình đã gợi ra. Chính những người lãnh đạo cách mạng cũng đòi hỏi ở Văn nghệ − riêng là thơ − nói lên cho mình những tình cảm lớn lao, cổ vũ được cả cho mình, bồi dưỡng cho mình bằng những cái xúc cảm lạ lùng vĩ đại mà người thi sĩ tiên giác được trên cơ sở của cách mạng. Nhưng làm thế nào được? Đã có người thi sĩ nào gần đây có thể nói lớn được rằng: “Cách mạng đã hoàn toàn tin cậy ở tôi. Tôi tự hào được đứng ở hàng ngũ tiền phong của cách mạng, vì cách mạng đã giúp cho tôi ý thức nổi cái trách nhiệm và đã cho tôi đầy đủ cái hiểu biết về cách mạng rồi”.
Chị đã dành nhiều chương trong Phức cảm Caliban để nói về một loạt tác giả khác nhau, E.M. Corian, Knut Hamsun, Maria Tsvetaveva, những người mà chị gọi là “người chết thân thiết”. Liệu chị có đang viết về mình trong chính truyền thống ấy?
Theo nhà văn Tạ Duy Anh - người biên tập cuốn truyện ngắn này - đây là một cuốn sách lành mạnh, thậm chí là rất đáng trân trọng khi tác giả có chủ ý đưa ra những sáng tạo mới. Nội dung cuốn sách không có vấn đề gì. Việc nói sách kích dục là hoàn toàn vô căn cứ và do đọc không kỹ.
Hành trình của cái tôi luôn ám ảnh trong thơ Đồng Đức Bốn bấy lâu này dù trong xu hướng đi - về hay tìm kiếm ở những miền đất khác thì tất cả những cuộc phiêu lưu ấy hoá ra vẫn chỉ là những cuộc phiêu lưu trong câu lục bát.
Hệ quả chúng ta thấy là chữ Tài không chỉ hạn chế trong số ý nghĩa thông thường là sắc đẹp, tài năng thi phú, đàn..., và chữ Mệnh cũng không gò bó trong một số hoàn cảnh bên ngoài, thường còn gọi là số rủi may. Các hình ảnh văn chương chỉ là những tượng trưng gợi lên những diễn tiến trong cuộc vật lộn, hay nói theo Hán Chương Vũ Đình Trác là cuộc va chạm giữa Trời và Người, kết dệt nên cõi người ta.
“Những bài thơ của ông thường tạo ra rất nhiều “không gian rỗng” để người đọc bị cuốn vào câu chữ mà tham gia đồng sáng tạo với nhà thơ. Thơ Thanh Thảo thường mở ra nhiều trường liên tưởng khác nhau, tạo ra độ mờ nhoè về nghĩa. Và người đọc cũng rất “tự do” trong việc tiếp nhận bài thơ” (Mai Bá Ấn).
Thơ càng hay, càng giàu khả năng tạo ra "vùng ánh sáng động đậy", đồng nghĩa với tiềm tàng "sức gợi". Và điều đó hẳn nhiên cũng không dễ cho người tiếp nhận. Song, với những bài thơ hay, người tiếp nhận càng có động lực đi đến cùng, chạm đến đáy, dẫu điều ấy không hề dễ dàng. Đàn ghi-ta của Lor-ca của Thanh Thảo là một thi phẩm như thế.
Một nhận xét quan trọng nữa liên quan đến bố cục của tác phẩm, đó là nỗ lực hệ thống hoá tư tưởng. Chúng ta sẽ còn nhiều dịp đào sâu điểm nầy khi phân tích và lý giải phần dẫn nhập và phần tổng luận. Nhưng ở đây, khi đối chiếu với những tác phẩm như Chinh Phụ Ngâm,Cung Oán Ngâm Khúc chẳng hạn, thì rõ rệt bản văn Đoạn Trường Tân Thanh, không còn là một tác phẩm văn chương tiểu thuyết nhằm kể một câu truyện. Nguyễn Du đã đưa ra những thắc mắc, trực giác được để nêu lên toàn bộ ở phần dẫn nhập.
Càng ngày càng có nhiều lời kêu ca rằng thơ bây giờ tù mù, khó hiểu, thậm chí vô nghĩa. Thơ ngày nay thật khác xa thơ truyền thống, thường dựa trên cơ sở là một câu chuyện gì đó, thường "kể" về một cái gì đó, cái mà ta hay gọi là "tứ thơ". Nhưng "vô nghĩa" - nếu như ta có thể gọi những bài thơ không có "tứ" như vậy - dường như không phải chỉ là trò lòe bịp của những kẻ bất tài.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.