Phải chăng, có sự kết nối kỳ lạ và cao đẹp giữa tác giả, biển và người anh để rồi trong đời thơ mình, Hữu Thỉnh viết nhiều về biển. Ngoài một số bài lẻ về biển đảo, ông có Trường ca biển...
Những năm ở chiến trường Campuchia, tôi thường gửi thơ về Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Tuy không được đăng nhưng lần nào tôi cũng nhận được thư trả lời của tạp chí. Những lá thư từ Thủ đô, vượt qua biên giới, sang tận mảnh đất địa đầu ở Campuchia. Ấm lòng và khích lệ bao nhiêu. Sau này, thơ được đăng. Tôi mới biết thơ mình được các nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, Anh Ngọc, Vương Trọng... biên tập rất kĩ lưỡng, cắt bỏ những câu thừa rất chuẩn xác. Tôi luôn mang ơn những tâm hồn thơ tinh tế, khoáng đạt và công minh của các anh.
Nhưng ít người biết rằng, để có những tác phẩm mang âm hưởng sử thi phản ánh những sự kiện “long trời lở đất”, những đại cảnh bi tráng ấy Khuất Quang Thụy đã phải trải qua lắm đoạn trường.
Vừa làm thơ, vừa viết tiểu luận phê bình, thành công của Mai Bá Ấn chính là ở chỗ anh đã đưa hồn thơ thấm vào từng câu chuyện, để biến những lát cắt đời thường thành những trang viết giàu chất thơ và sâu sắc.
Trong một bài viết, nhà văn tài hoa Đỗ Chu đã từng ví Mai Ngữ như một con rồng ẩn trong ao đầm chỉ khi trời mưa to gió lớn mới xuất hiện trên bầu trời vần vũ. Đỗ Chu cũng ví ông như chén rượu gạn đáy vò hương vị đượm nồng chỉ người sành rượu mới cảm nhận hết sự tinh túy của đất trời trong chén rượu gạn đáy vò ấy. Quả thực cuộc đời và văn chương của Mai Ngữ luôn như vậy. Ông luôn quá lặng thầm đến mức như quên đi cả chính mình, nhưng tác phẩm của ông thì không.
So với 3 tập thơ trước, “Hát & khóc” phong phú về đề tài và góc nhìn, đa dạng trong cảm xúc và thủ pháp nghệ thuật hơn. Điều đáng trân trọng ở tập thơ mới nhất này là những nỗ lực đổi mới thơ ở tác giả Mai Bá Ấn, một người nặng lòng với thơ ca.
Hai nửa vầng trăng - những câu thơ giản dị tài hoa, sự ngậm ngùi, tâm trạng của tình yêu lãng mạn, của sự chia sẻ cảm thông, của những giọt nước mắt, của con tim thổn thức mang nhiều tầng ý nghĩa khác nhau. Hình ảnh vầng trăng được mượn một cách độc đáo, vừa dịu hiền sáng trong lại ẩn chứa tình người, khát vọng tình yêu trọn vẹn viên mãn, dù biết điều đó là rất khó. Nó lấp lánh một không gian huyền ảo trong sắc màu của hội họa trừu tượng.
Trong cuốn thơ Theo cánh chim câu ở trang đầu bà ghi “Kính dâng Đảng, kính dâng Bác”, tôi vô cùng cảm động khi bà ghi tặng tôi dưới dòng kính dâng đó và gọi tôi là đồng chí của bà, bà nói: Cậu là đồng chí nhỏ, là em của chị. Từ đó tôi gọi bà là chị xưng em.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.