Thơ lúc này ít nhạc, nhiều họa. Việc làm mới thơ là tất nhiên. Nhưng như Tản Đà hồi đầu thế kỷ, việc phá vỡ cách, thức, điệu, luật không đơn giản chút nào. Cái giới hạn mong manh của nguyên tắc và khám phá. Của truyền thống và đương đại. Của bảo thủ và cách tân chỉ có thể được đo bằng tài năng và sự dũng cảm. Sự khẳng định, vì thế, của Lê Huy Quang, càng khiến ta trân trọng.
Khác với lối nói nhát gừng của Hoàng Trung Thông, khác với kiểu rù rì thật thà của Tế Hanh, Chế Lan Viên có cách nói chuyện sinh động, sắc sảo, giàu hình ảnh. Nghe chú mới ốm dậy, tôi khuyên chú tập thể dục, chú đáp ngay: “Thà chết còn hơn”.
Trong quá trình làm biên tập ở Tạp chí Sông Trà (Hội VHNT Quảng Ngãi), cùng nhà thơ Thanh Thảo làm admin cho trang Web Bichkhe.org và biên tập mục Văn hóa nghệ thuật của Tạp chí, website Trường Đại học Tài chính - Kế toán nơi tôi đang giảng dạy, tôi được nhận và đọc nhiều thơ của cộng tác viên gửi về. Hễ cứ gặp thơ hay là cảm xúc bùng lên (dù đang biên tập). Vậy là tôi tri âm vài dòng về những bài thơ ấy cho dù tác giả là nhà thơ chuyên nghiệp hoặc không chuyên. Cứ miễn thơ hay là tôi viết…
Bài thơ là một giai điệu đẹp về tuổi học trò, được diễn tấu bằng guitare theo phong cách flamenco, mở đầu bằng một hợp âm trưởng lảnh lót, chơi vơi và kết thúc bằng một gam thứ lắng đọng, day dứt.
Trong các nhà văn miền Nam tập kết ra Bắc thì Anh Đức (tên thật là Bùi Đức Ái) là một trường hợp đặc biệt. Đặc biệt là bởi vì ông chưa hề bước chân vô một trường trại sáng tác nào hết. Trường Viết văn Nguyễn Du, Học viện Văn học Gorky, các lớp bồi dưỡng sáng tác ngắn hạn dành cho nhà văn trẻ ông chưa hề đặt chân đến. Thế mà ông lại có những thành công trong sáng tác, nhất là mảng đề tài chiến tranh.
Trong trái tim mỗi người luôn có những phần đặc biệt dành cho người phụ nữ của cuộc đời mình. Người đó có thể là Mẹ, là Chị, là Vợ, là Con gái… Đôi lúc lại là một Em cụ thể hay trừu tượng nào đó. Dường như tất cả những người phụ nữ ấy đều mang đến cho chúng ta sự ấm áp, an lành, hạnh phúc khi thành công cũng như lúc thất bại, để ta sống tốt hơn, vững vàng tin tưởng hơn ở cuộc đời này. Xin trân trọng gửi tới bạn đọc chùm thơ viêt về “nửa quan trọng làm nên thế giới”…
Nguyễn Thụy Long là một nhà văn cũng bùng vỡ tài hoa trong giai đoạn thập niên 60 nầy, tác phẩm của Ông chợt bước vào một lối rẽ sáng tạo mới. Ông đi thẳng vào đề tài tuổi trẻ khơi dậy trong nỗi quạnh hiu bất công cuộc đời, đưa nhân vật hùng cứ một phương cách sống trong một xã hội đen biệt lập. Trước 1965, vài tác phẩm của Nguyễn Thụy Long ra đời cũng đã biểu hiện phong cách tự do theo nghĩa ngoài lề xã hội
Huyền Quang ( 1254-1334 ) hiện còn để lại một di sản văn chương vào loại khiêm tốn, với một bài phú Nôm Vịnh Hoa Yên tự phú và vài chục bài thơ chữ Hán, nhưng nếu nhìn trong tương quan với phần nhiều các tác gia thời kỳ Lý Trần thường chỉ còn lại vài ba bài, thì đó lại là một gia tài không nhỏ. Trong số 23 bài thơ chữ Hán, người viết đặc biệt hứng thú, quan tâm tới một chùm thơ vịnh hoa cúc gồm 6 bài.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.