Việc nắm bắt, định hình “vân chữ” (Lê Đạt) nhà thơ là điều quan trọng đối với người tiếp nhận. Mỗi người đọc là một chủ thể đồng sáng tạo, đều có con đường riêng giữa vô cùng con đường tiếp cận và xử lý văn bản. “Đêm và những khúc rời của Vũ” là tập thơ có nhiều đường vân. Đường vân nào cũng có những khoảng trống đang chờ đợi làm đầy. Bởi lẽ, chúng được xây dựng bằng vật liệu đặc biệt: sự tháo rời và lai ghép ngôn từ.
Đó là người đàn ông có cái tên khai sinh thật thà như đếm: Nguyễn Thành Út. Với năng khiếu bẩm sinh cùng sự đam mê khổ luyện suốt mấy chục năm ròng, Nguyễn Thành Út đã trở thành một nghệ sĩ cải lương được mến mộ suốt từ Nam tới Bắc, được suy tôn là "Vua vọng cổ" với nghệ danh Út Trà Ôn (1919-2001).
Nhịp điệu (rhythm) và vai trò của nó trong tổ chức văn bản tác phẩm là yếu tố cơ bản, được chúng tôi lựa chọn làm mạch xuyên suốt, xâu chuỗi việc khảo sát những biến chuyển về thi pháp. Bài viết cũng tự giới hạn phạm vi khảo sát trên cơ sở các bài thơ của bộ phận văn học viết, hữu danh hay khuyết danh, nhưng phải áng chừng được thời đại mà nó ra đời.
Thơ muốn trở thành khúc nhạc lòng, nhạc hồn không thể không có tiết tấu, nhịp điệu uyển chuyển. Nhạc lòng chuyển hoá thành nhạc thơ. Nhạc thơ đa dạng, khi trầm bổng, du dương, lúc thanh thoát, nhẹ nhàng… ứng với điệu hồn thi sĩ. Nhạc thơ biểu hiện cụ thể ở nhịp điệu. Thi nhân phổ nhạc cho thơ, tiếng thơ vang ngân trong không gian, tạo thành các “bước sóng” gõ cửa tâm hồn độc giả.
Đã có khá nhiều lời bình phẩm và kiến giải về màn "Báo ân báo oán" trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, thậm chí có những ý kiến trái ngược xung quanh việc Kiều tha bổng Hoạn Thư trong khi lại thẳng tay trừng trị "lũ người bạc ác tinh ma" khác. Trong bài viết này, tôi xin bổ sung một số kiến giải theo quan điểm riêng của mình, mong bạn đọc có ý kiến khác thì cùng trao đổi...
Thỉnh thoảng tôi mới có dịp gặp nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhưng nghe và đọc về anh thì nhiều. Có người bảo anh là tài sản lớn của đất nước,có người bảo anh là vua… cuội, có người lại bảo nói theo dân gian thì anh chính là Trạng, mấy trăm năm dân Việt mới có được một người, có bác đùa chê anh suốt đời chỉ mặc được áo quần bộ đội (anh mà mặc com lê ca vát thì… không nhìn được!). Còn tôi thì chỉ xin kể lại những gì tôi trực tiếp biết về anh. Trần Đăng Khoa… cuội hay Trần Đăng Khoa nghiêm túc và chu đáo? Có lẽ là …cả hai! Bởi vì thực thì anh cũng rất tếu và hay đùa, một điều mà tôi nghĩ là chỉ những người thông minh và không coi cái gì là quan trọng quá mới có thể làm được.
Từ góc độ ký hiệu học, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là một hệ hình ngôn ngữ đã thuộc về quá khứ, hoá thành hiện tượng văn hoá – lịch sử, nay tựa như bị bỏ quên trong “kho lưu trữ” của thời trước. Ở Việt Nam, có thể tìm thấy biểu hiện của hệ hình ngôn ngữ này trong sáng tác của một đội ngũ đông đảo các nhà văn, nhà thơ gồm nhiều thế hệ, từ lớp người từng khởi nghiệp, nổi danh trong phong trào “Thơ mới” và dòng văn học hiện thực trước 1945, qua lớp tác giả trưởng thành thời chống Pháp, đến những cây bút nhiều không kể xiết của thời chống Mỹ. Nhưng thơ Tố Hữu là chất liệu lý tưởng mà tôi muốn chọn để khảo sát.
Người Thanh Hóa tự hào vì có hai ông Mai Linh nổi tiếng: Một Mai Linh Taxi và một Mai Linh nhà thơ. Ông Mai Linh nhà thơ mà chúng ta sẽ gặp gỡ trong bài viết này là người không thích đọc thơ mình trước đám đông, rất ngại ngùng khi được giới thiệu là nhà thơ.
Tháng 7.1945, Huy Cận tham dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào và được bầu vào Uỷ ban Dân tộc giải phóng toàn quốc. Khi Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, Huy Cận được vinh dự đảm nhận trọng trách Bộ trưởng Bộ Canh nông, kiêm Thanh tra đặc biệt của Chính phủ. Ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ hồi ấy chỉ có hai người: cụ Bùi Bằng Đoàn (nguyên Thượng thư Bộ Hình của triều đình Huế) và Cù Huy Cận. Nhiệm vụ chủ yếu của Thanh tra đặc biệt là chấn chỉnh kịp thời những biểu hiện tiêu cực trong đội ngũ cán bộ nhằm đề cao kỷ cương phép nước, tạo dựng niềm tin của nhân dân đối với chính quyền cách mạng. Đoàn Thanh tra đã đến nhiều địa phương nắm bắt tình hình, xử lý kiên quyết và khôn khéo những cán bộ mắc khuyết điểm, sai lầm. Những việc làm của Thanh tra đã được nhân dân nhiệt tình ủng hộ vì họ thấy Chính phủ Cụ Hồ luôn bênh vực bảo vệ dân...
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.