Thái An, tên thật là Lê Ngọc Liên sinh năm 1985 tại Hà Nội, tốt nghiệp đại học năm 2007, thạc sĩ năm 2017 tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội); và, hiện cũng đang công tác tại một trường đại học ở Hà Nội. Như thế, mảnh đất “ngàn năm văn hiến” Thăng Long – Hà Nội này đã trở thành cuộc sống, gắn bó, sẻ chia và cả để Liên gửi gắm những yêu thương, vui buồn, tâm sự.
Chuyến đi chúng tôi dừng chân tại thành cổ Đồ Bàn (An Nhơn – Bình Định). Tháp Cánh Tiên lấp ló trong màn sương mờ ảo. Nhà thơ Trần Thị Huyền Trang người dẫn đường nói, đây chính là cái nôi thi ca của nhóm “Bàn Thành tứ hữu” gồm Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan và Quách Tấn. Cánh chim đầu đàn dầy công xây dựng nhóm thơ Bình Định này chính là nhà thơ Yến Lan (1916-1998). Ông có tên thật là Lâm Thanh Lang.
Giữa thời buổi công nghiệp hóa, đô thị hóa đang rậm rịch, anh lo sợ sẽ phá vỡ đi, đánh mất đi miền-tâm-tưởng của riêng anh và cũng là của mọi người, anh lo giữ lại cái hương quá khứ để đừng ai nguôi quên về một miền ký ức
Trong gần một thế kỷ thực dân Pháp đô hộ nước ta, cũng có rất nhiều người Pháp là nhà khai sáng mà tên tuổi của họ còn mãi với thời gian. Đó là Alexandre de Rhodes – một nhà truyền giáo dòng Tên đã góp phần quan trọng vào việc hình thành chữ Quốc ngữ Việt Nam hiện đại. Đó là bác sĩ, nhà thám hiểm Yersin, người tìm ra cao nguyên Lâm Viên (Đà Lat).v.v… Linh mục thừa sai Leopold’ Cadierè cũng là con người kiệt xuất như vậy. Ông đã trở thành “người Việt Nam” từ trẻ và dành cả đời mình nghiên cứu văn hoá Việt, và để lại tên tuổi lẫy lừng.
Áp Tết Mậu Tuất năm 2018, tức tháng 1 năm 2019, tôi và hai nhà thơ Vương Cường, nhà thơ Đoàn Xuân Hòa (nay đã mất) nhảy tàu về Vinh dự lễ ra mắt “Tuyển tập thơ Thạch Quỳ” do Nhà xuất bản Nghệ An tổ chức. Đó là một sự kiện văn hóa với những người làm văn học nghệ thuật Nghệ An.
Đôi lúc tôi có cảm tưởng như Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn tạo dựng một huyền thoại thật đẹp về tình bạn nghệ sĩ qua sự nhiễu nhương cuộc thế trần gian như một cõi tạm phù hư…
Nhắc đến thành tựu thơ viết theo hệ hình hậu hiện đại ở Huế trong giai đoạn đổi mới, sẽ là điểm thiếu sót lớn nếu không tính đến ý nghĩa và vai trò của quá trình xây dựng trào lưu Tân hình thức ở Việt Nam, được khởi tích từ mảnh đất trầm mặc này. Mặc dù vẫn còn đó nhiều hạn chế, nhưng đến thời điểm này, với tất cả những gì đã trải qua, ta đã có thể khẳng định vai trò quan trọng của Huế đối với cả ba hệ hình thơ Việt Nam. Dẫu còn là trung tâm hay không, thì mọi sự phát triển, cách tân, chuyển đổi hệ hình của tiến trình thơ Việt Nam giai đoạn đổi mới đều ít nhiều phải liên đới đến Huế và ghi nhận những dấu ấn riêng, mang bản sắc địa phương của mảnh đất này trong quá trình hội nhập.
Nhắc đến thành tựu thơ viết theo hệ hình hậu hiện đại ở Huế trong giai đoạn đổi mới, sẽ là điểm thiếu sót lớn nếu không tính đến ý nghĩa và vai trò của quá trình xây dựng trào lưu Tân hình thức ở Việt Nam, được khởi tích từ mảnh đất trầm mặc này. Mặc dù vẫn còn đó nhiều hạn chế, nhưng đến thời điểm này, với tất cả những gì đã trải qua, ta đã có thể khẳng định vai trò quan trọng của Huế đối với cả ba hệ hình thơ Việt Nam. Dẫu còn là trung tâm hay không, thì mọi sự phát triển, cách tân, chuyển đổi hệ hình của tiến trình thơ Việt Nam giai đoạn đổi mới đều ít nhiều phải liên đới đến Huế và ghi nhận những dấu ấn riêng, mang bản sắc địa phương của mảnh đất này trong quá trình hội nhập.
“Có ông thầy tướng bảo anh thế này chú ạ: Bác là người tài và có uy. Những gì gian khó, những gì người ta không làm được thì bác đều làm được, và làm rất tốt. Nhưng bác như tướng ngoài biên ải, cứ đánh đồn lập ấp xong thì người khác lại hưởng, bác lại đi mặt trận khác. Ngẫm thấy mình cầm tinh con ngựa, có làm tướng thì tướng của những vó ngựa truy phong, gập ghềnh biên ải, chắc gì được an nhàn nội cung. Anh đã tha thứ cho tất cả”.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.