Cái hóm của Quân khá kín đáo, phải tinh ý một chút mới nhận ra. Anh không hài hước một cách dễ dãi, nhưng luôn biết nhìn thấy khía cạnh hài hước ngay trong những sự việc có vẻ nghiêm túc. Như vừa rồi có nhạc sĩ kiện anh tại sao là chủ tịch Hội đồng xét giải thưởng mà lại “gạt phăng” tác phẩm khí nhạc của nhạc sĩ này ra khỏi giải, tôi nhớ Quân trả lời báo chí, đại ý: “(Nhạc sĩ đó) từ trước tới nay đã đạt được nhiều giải thưởng. Nhưng không thể được nhiều giải thưởng rồi thì cứ mãi mãi được giải thưởng!” Cái này gọi là “mặc định giải thưởng”. Đó là một câu trả lời nghiêm túc nhưng ẩn phía sau một chút humour, một chút hóm rất…Cuội. Mà lại hợp lý!
Diệp Minh Tuyền đã đi vào chiến trường miền Nam khá sớm, ngay sau khi anh tốt nghiệp khoa ngữ văn đại học Tổng hợp và được về công tác tại Viện văn học. Là con trai một nhà giáo, một cán bộ cách mạng lão thành-ông Diệp Tư-lại có thành tích học tập tốt, nếu bình thường thì Diệp Minh Tuyền đã là nhà nghiên cứu văn học, rồi sẽ là một giáo sư tiến sĩ gì đó ở Viện văn học…Nhưng anh đã dứt khoát xung phong đi chiến trường.
"Nguyễn Trãi hết sức kính trọng khả năng sáng tạo của dân. Ông thường so sánh khả năng ấy với sức mạnh chở thuyền, lật thuyền của nước. Sáu trăm năm sau, sự thao thức của con người hành động- Nguyễn Trãi cũng là sự thao thức của tất cả những ai yêu tha thiết nhân nghĩa trên trái đất này".
Suốt một đời tôi đi tìm sông Tương mà vẫn chưa gặp nó. Ở vùng chúng tôi có tổng Tiêu Giang, lại có xã Tương Giang. Ngờ rằng sông Tiêu Tương nằm quanh chỗ ấy. Sen súng um tùm ven bờ tre, trong ruộng lúa, ao chuôm, đầm lầy.
Đó là một người già lành hiền, ăn mặc không còn có thể giản dị hơn, nhưng rõ ra là một trí thức “cũ”, nền nếp, với phong thái khiêm nhường nhưng đường hoàng. Khi được giới thiệu, tôi mới biết đó là nhà thơ Vũ Đình Liên. Ai trong chúng ta mà chẳng một lần nghe hay thuộc lòng bài thơ “ Ông đồ” của Vũ Đình Liên! Tôi rất hân hoan được chuyện trò với Vũ Đình Liên.
Tối 18.3, tác giả bài thơ Màu tím hoa sim bất hủ đã không còn nữa. Từ biệt cõi thế ở tuổi 95, nhà thơ Hữu Loan trong tâm trí bạn bè văn chương và độc giả cả nước vẫn sừng sững một cốt cách thi nhân, sừng sững như Đèo Cả trong thi ca kháng chiến và sống mãi như Màu tím hoa sim trong trái tim triệu người.
Chính môi trường sông nước đó đã hình thành nên một kho tàng đồ sộ và đa dạng, phong phú trong ngôn ngữ giao tiếp của người Việt. Từ ngôn ngữ ra đời từ địa hình sông nước, hoạt động trên sông nước, dần dần hình thành nên cả một trường ngôn ngữ sông nước trong giao tiếp của người Việt.
Tôi hát một bài nhạc của Nguyễn Thành phổ thơ Tạ Hữu Yên, bài hát về những “ký ức xanh” Hà Nội năm 1946: “Đêm, cái đêm rút qua gầm cầu/Anh, anh đã hẹn ngày mai trở lại/Sóng sông Hồng vỗ bờ hát mãi…/”. Bài hát này bản thân nó đã rất xúc động, tôi lại hát trong tâm trạng…muốn vay tiền, nên càng…day dứt hơn. Tôi đang say sưa hát thì nhà thơ Tạ Hữu Yên đã đứng sau lưng tôi từ lúc nào. Tôi quay lại nhìn ông, thấy “ông già” cũng có vẻ rất xúc động. Tôi bèn tranh thủ ngỏ lời: “Anh Yên ơi, anh cho em…mượn mấy đồng, em đang cần tiền quá!” Nhà thơ Tạ Hữu Yên xởi lởi: “Cậu cần bao nhiêu ? Mình đi công tác nên không có nhiều tiền, nhưng cậu cứ cầm đi!”.
Thật may mắn trong đời, là tôi - một cây bút còi ở Quảng Ngãi lại được một lần... một lần duy nhất chở nhà thơ Hữu Loan dạo thị xã Quảng Ngãi bằng xe đạp. Đó là vào khoảng năm 1987 khi trên chuyến hành phương Nam nhận giải thưởng bút ký của Báo Tuổi trẻ, ông ghé Quảng Ngãi chơi. Và tôi lại đã được mời nhà thơ về trường nói chuyện cùng thầy trò nhà trường một buổi. Nghe tin Hữu Loan mất, dù không phải là đột ngột vì tuổi ông đã quá cao, nhưng tôi vẫn cứ thấy ngùi ngùi... Xin giới thiệu một bài viết về Hữu Loan nhân ngày nhà thơ đa đoan của chung ta giã từ cõi tạm (Mai Bá Ấn)
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.