Gần đây, thuật ngữ “hậu hiện đại” được giới cầm bút VN nhắc tới ngày một nhiều trong các cuộc hội thảo, toạ đàm và các bài phê bình, nghiên cứu. Phút đầu bỡ ngỡ, mới làm quen, nó được gọi một cách đầy nghi ngờ, như một hiện tượng “quái chiêu” hoặc có hơi hướng “tội phạm”: “cái gọi là hậu hiện đại”.
Kể lại một số kỷ niệm, như “Sau năm 1980, Báo Văn Nghệ và Hội Nhà văn mở lớp dạy tiếng Pháp ở trụ sở Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật, 51 Trần Hưng Đạo, có hôm nhà văn Nguyễn Đình Thi ghé qua, rất vui nói với chúng tôi: - Tôi vừa đọc trang thơ của các cô trên Văn Nghệ, thấy bài nào cũng được cả. Các cô đứng với nhau như thế, mỗi người một vẻ bổ sung cho nhau, hay lắm! Xuân Quỳnh cười rất tếu: Anh thấy chúng em có tài không ạ? Nguyễn Đình Thi làm vẻ nghĩ ngợi rồi gật gù: Tài chứ, tài nhất là cô nào cũng học hành chả đâu vào đâu, ngoại ngữ thì dốt đặc, mà viết lại hay mới chết chứ!”, cuối cùng nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn kết luận: “Nguyễn Đình Thi là người tài năng, uyên bác, hóm hỉnh và thông minh nhưng anh ít khi được sống thật với con người của mình”
Theo những người con gái của bà Yến, 30 năm làm vợ Hoàng Cầm, người ngoài nhìn vào, chỉ nhìn thấy những nhẹ nhàng, thanh thản, đường hoàng trên gương mặt bà, mà không sao thấy được hòn Thái Sơn đè nặng trên vai người phụ nữ bé nhỏ ấy.
Đẹp, tài sắc và dám sống mãnh liệt, nữ nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết mới của Đoàn Lê bị số mệnh bạc đãi từ lúc mới sinh ra tới tận khi từ giã cuộc đời. Cuốn sách được đánh giá là một tác phẩm giàu chất tự truyện.
Bộc bạch của Dương Tường: “Về thơ tôi gần với Trần Dần hơn cả, và có chịu ảnh hưởng của anh ấy. Lê Đạt và tôi cũng có những điểm tương đồng. Lê Đạt tự gọi mình là phu chữ, còn tôi đã từng viết rằng mình một đời ăn nằm với chữ. Tiếng Việt, ăn nằm có nghĩa là vợ chồng. Nhưng đối với Trần Dần, thì tôi coi anh ấy vừa là bạn vừa là thầy của tôi.
Văn Bảo Ninh là câu chuyện đời (life narrative) của chính ông. Ở đó, ký ức cá nhân trở thành chất liệu của hư cấu còn hư cấu xét đến cùng tượng như một lẽ viết, và vì thế, một lẽ sống.
Tính ra trong tác phẩm "Đoạn Trường Tân Thanh" có ba tên chùa được nêu ra trên chặng đường lưu lạc của nàng Kiều: Quan Âm Các, Chiêu Ẩn Am, chùa Giác Duyên ở sông Tiền Đường. Còn có một ngôi chùa thứ tư nào? Ta hãy theo gót nàng Kiều đi tìm ngôi chùa ấy.
Tinh thần tự vấn, tự nhận thức mạnh mẽ đó đã dẫn đến những tứ thơ bộc lộ rõ ý hướng đối thoại ở những bài thơ mượn lời sự vật, nói với sự vật, từ đó ngụ ý về sự nhận thức giá trị của cá thể. Đó là “Lời giẻ lau”: “Thân tôi bẩn cho các người sạch sẽ”, là “Giàn hoa giấy thở than”: “Ôi!/ Giá như không có bàn tay xuẩn ngốc kia/ Trên giàn cao/ Quấn quýt bên màu xanh tình tứ/ Ta lộng lẫy mà dịu dàng biết bao nhiêu”, trò chuyện với hoa bằng lăng: “Bằng lăng ơi/ Đừng nhạo báng ta/ Dáng đi mê mải đến dại khờ/ Còn dại khờ hơn ta/ Có ngàn vạn cánh hoa/ Mê mải nở/ Giữa ồn ào phố xá”… Và câu trả lời cho giá trị của cái tôi ấy là gì? Tình thương? Sự cao quý? Sự kiêu ngạo?... Không, Dư Thị Hoàn có phần táo bạo, có phần ngông nghênh thật đấy nhưng đó chỉ là tư thế bên ngoài
Tác giả Trần Kỳ cho rằng: “Lưu Quang Vũ là hiện tượng hiếm có trên văn đàn Việt Nam. Người viết những dòng chữ này đã từng được đến xem Nhà hát vũ kịch do Pháp xây dựng ở Pê-trô-grat, ở Sô-phi-a. Hình thức và nội thất của nhà hát đó giống y Nhà hát lớn Hà Nội. Ở trên cao, giữa khung sàn diễn có bức phù điêu của kịch gia Mô-li-e. Nên chăng, các nhà hát của ta cũng có một bức phù điêu như thế cho Lưu Quang Vũ?”
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.