Bạn bè vẫn bảo nhau, anh Tường sở dĩ bị tai biến vì anh chỉ nhậu rượu với món…nói. Anh gần như rất ít khi đụng đũa tới mồi nhậu, dù là sơn hào hải vị. Với anh Tường, nhậu với món…nói là…đã nhất, sướng nhất! Thì tại sao, bây giờ không còn khả năng nhậu nữa, anh lại không phát huy cái “món nói” đặc sản này cho những bài viết của mình?
Đó là Chu Thị Thơm, nữ nhà thơ cầm tinh con cọp, với những tác phẩm đã in: Từ cõi ảo (tiểu luận và phê bình văn học-2004); Dự cảm mùa thu (tập thơ-2005); Chuyện làng giáo- làng văn (tạp cảm-2006); Gió và em (tập thơ- 2008); Chiều muộn (tập truyện ngắn-2009)…Ngoài đời, chị là người vui vẻ, hay đùa tếu. Chị không bao giờ để những người tiếp xúc với mình có cảm giác khó chịu, hoặc ngượng ngập-kể cả những người mà chị không ưa.
Mười bốn năm ở rừng, cái Tết sâu đậm nhứt trong tôi, cũng như nhiều người thời ấy, là Tết Mậu Thân năm 1968. Tôi dự suốt trận đánh ấy, từ giữa năm 1967 đã được điều về khu Sài Gòn-Gia Định, dự các khóa tập huấn, tuy không được phổ biến cụ thể nhưng ai nấy đều cảm thấy sắp có trận đánh lớn có tính chất quyết định. Và lạ sao, như sau này được biết, bộ máy chiến tranh khổng lồ của quân Mỹ với dàn quân CIA thiện chiến không mảy may đánh hơi được chút nào về trận đánh, vậy mà người dân bình thường quanh thành phố đều cảm thấy được, từng cánh quân chúng tôi áp sát vào thành phố được người dân ở đây đón tiếp với thái độ chăm sóc đặc biệt khác thường.
Tôi nói đùa với các bạn: ông Phan Tứ này mà làm thuế vụ thì con buôn chỉ có…chết! Phan Tứ cũng là người đặc biệt sòng phẳng: xin thì cho, vay thì trả. Chúng tôi thỉnh thoảng vẫn mượn tiền Phan Tứ, ông rất sẵn lòng. Nhưng biết tính ông, mượn xong thì phải tìm “nguồn” để trả. Có lần, mấy anh em chúng tôi thử…xin tiền Phan Tứ, xem ông có cho không? Ông vui vẻ cho liền, tuy không nhiều.
Tôi có diễm phúc được một lần về thăm nhà thờ cụ Tam nguyên Yên Đổ Thăm thật lâu và hỏi thật cặn kẽ. Cũng đi dạo quanh hồ ao nơi đã từng in dấu trong thơ cụ. Là một nhà thơ nông thôn trữ tình, đồng thời lại cũng là một nhà thơ trào phúng nổi danh: cười để khóc! Đúng như Chế Lan Viên từng so sánh: "Yên Đổ- tiếng anh khóc, dẫu cười, không thể dấu/ Và Tú Xương cười gằn như mảnh vỡ thủy tinh". Nhân ngày Xuân, xin giới thiệu một bài viết về những câu đối của Cụ vậy (Mai Bá Ấn)
Đỗ Chu đã nói nhiều đến nỗi nhà văn đàn anh…nổi cáu. Nhưng bình tĩnh mà xét, thì rất nhiều câu nói của Đỗ Chu là có lý. Chỉ có điều, anh nói như bắn tiểu liên cực nhanh, lại nói không rào đón, không che chắn, nên nhiều khi khiến người nghe khó chịu. Vậy mà tính Đỗ Chu lại cực…tào lao. Anh nói đâu bỏ đó, không để bụng.
Ta đây vẽ cả ngàn tấm tranh, có người đem tranh đến hỏi ta: có phải tranh đó ta vẽ không? Thì ta cũng chịu thôi, không thể nhớ nỗi đâu. Nhưng có điều, thời ta hăng say sáng tác thì vật liệu rất khan hiếm, cũng vì quá nghèo, với lại không gian chật hẹp, bày biện ra chỉ khổ gia đình vợ con thôi. Nên ta chuyên trị các loại tranh nhỏ, hoàn tất nhanh chóng để thỏa mãn cái tật nghiện vẽ của ta thôi.
Huy Cận bàn với tôi rồi gửi bài thơ ra Hà Nội cho tờ báo của Tự Lực Văn Đoàn. ít lâu sau báo đăng bài thơ , gửi một tờ vào Huế biếu tôi. Vui sướng quá ! tôi đọc lướt qua bài thơ đã đăng và nói như reo lên với Huy Cận: “ Đăng nguyên văn , Cận xem này !” Huy Cận bạn tôi vốn tính tình cẩn thận ,ngồi bình tĩnh đọc lại bài thơ trên mặt báo rồi phát hiện : “ Có một từ bị sửa đấy Diệu ơi ! Diệu xem đây này…”
Hôm đó, chúng tôi đã hát suốt đêm, uống suốt đêm, mà không ai say cả. Nhạc đỏ quả thật rất kỳ diệu! Cũng từ hôm ấy, tôi luôn có cảm giác, tới một lúc nào đó, Mỹ Dạ sẽ…sáng tác nhạc. “Lúc nào đó” đã tới! CD nhạc của Mỹ Dạ, nếu ai chưa nghe thì liên hệ trực tiếp với chị để được…mua. Hoặc được biếu không gì đó. Hay ra phết đấy!
Vì đi bộ nên nhiều chuyện được nói ra, nhiều tâm sự và cả nhiều câu đùa vui từ các nhà văn cả trẻ lẫn già cứ được sáng tác tại chỗ tới tấp. Không biết nhà văn Đoàn Giỏi và nữ nhà thơ lão thành Anh Thơ “sáng tác” với nhau những câu gì, tới một lúc, tự nhiên nhà thơ nữ Anh Thơ…nổi cáu.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.